Cây Huyết Giác (Cây Dứa Dại)- Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

524
Huyết Giác
Huyết Giác
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Huyết Giác trang 59 – 60, tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là cây xó nhà, cây dứa dại, cây giáng ông.

Tên khoa học Pleomele cochinchinensis Merr. (Dracaena loureiri Gagnep.)

Thuộc họ Hành Alliaceae.

Huyết giác là chất gỗ màu đỏ, do một loại sâu hay nấm gây ra trên gỗ cây huyết giác già cỗi mục nát.

Mô tả cây.

Huyết giác là một loại cây nhỏ, cao chừng 1- 1,5m, có thể tới 2-3m, sống lâu năm. Thân phân thành nhiều nhánh. Cây nhỏ có đường kính chừng 1,6-2cm, cây to có đường kính tới 20-25cm. Lá hình lưỡi kiếm, trung bình dài 25-80cm, rộng 3-4cm tới 6-7cm, cứng, màu xanh tươi, mọc cách, không có cuống. Lá rụng để lại trên thân một sẹo, Thường chỉ còn một bó lá tụ tập trên ngọn. Cụm hoa mọc thành chùm dài tới 1m, đường kính phía cuống tới 1,5-2cm trên có lá nhỏ, dài 15cm, rộng 2cm, phân cành nhỏ dài tới 30cm. Hoa tụ từng 2-4 hoa gần nhau. Hoa nhỏ, đường kính 7-8 mm, màu lục vàng nhạt. Quả mọng hình cầu, đường kính chừng 1cm. Khi khô có màu đen, hạt hình cầu, đường kính 6-7 cam

Cây huyết giác
Cây huyết giác

Phân bố thu hái và chế biến.

Cây huyết giác thường mọc hoang tại các vùng núi đá xanh vùng Quảng Ninh, Nam Định, Hà Nam, Hà Tây, Hòa Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh. Núi đất không thấy có huyết giác. Phải những cây già, đã chết và đổ nát mới có gỗ. Những cây đã thành huyết giác có màu đỏ hoặc có nhiều đám màu đỏ, mùi vị không có gì đặc biệt. Trong những chỗ màu đỏ có cảm tưởng như do một loài sâu nào đục khoét gây ra, Hiện nay chưa rõ nguyên nhân do sâu hay do loại nấm nào gây ra huyết giác và từ cây chết đến khi có huyết giác là bao nhiêu năm.

Khả năng thu mua huyết giác hằng năm của ta có thể lên tới 20-30 tấn. Việc thu hái có thể tiến hành quanh năm. Chặt về phơi khô là được. Huyết giác hiện nay được thu mua để dùng trong nước và xuất sang Trung Quốc, nhưng cho đến nay chúng tôi vẫn chưa tìm được đóng y Trung Quốc dùng làm gì, với tên là gì. Tên huyết giác chỉ là tên các nhà đông y Việt Nam thường dùng mà thôi.

Vị thuốc huyết giác
Vị thuốc huyết giác

Thành phần hóa học.

Chưa có tài liệu nghiên cứu. Năm 1961, nghiên cứu sơ bộ, Đặng Thị Mai An không thấy antoxyan, không thấy cacmin và cũng không thấy chất nhựa.

Chỉ mới biết rằng trong huyết giác có chất màu đỏ tan trong cồn, axeton, axit, không tan trong ête, clorofoc và benzen. Với kiềm, màu đỏ vàng lúc đầu chuyển sang màu da cam (Bộ môn dược liệu và thực vật trường đại học y dược, Hà Nội, 1961).

Tác dụng dược lý.

Sơ bộ nghiên cứu tác dụng giãn mạch trên tai thỏ, thấy chất tan trong rượu với nồng độ 1/270 có tác dụng giãn mạch (Báo cáo tốt nghiệp của Đặng Thị Mai An, Hà Nội, 1961).

Công dụng và liều dùng.

Huyết giác còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi nhân dân, chưa thấy được ghi trong một tài liệu nào.

Nhân dân dùng chữa những trường hợp ứ huyết, bị thương, máu tím bầm không lưu thông. Dùng cho cả nam và nữ. Đối với nữ còn dùng khi kinh nguyệt bế. Liều dùng: ngày 10-20g dưới dạng thuốc sắc, ngâm rượu uống và xoa.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!