Cây Hoắc Hương – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

399
Hoắc Hương
Hoắc Hương
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

Hoắc Hương trang 384-375 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là Quảng Hoắc Hương, Thổ Hoặc Hương.

Tên khoa học Pogostemon cablin (Blanco) Benth.

Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae).

Hoắc hương còn gọi là quảng hoắc hương dài 2-8cm, rộng 1-5cm, đầu lá nhọn phía cuống (Herba Pogostemi hay Herba Patchouli) là cành và lá phơi hay sấy khổ hoặc toàn cây (trừ rễ) phơi hay sấy khô của cây hoắc hương Pogostemon cablin (Blanco) Benth.

Thổ hoắc hương hay xuyên hoắc hương (Herba Agastachis rugosae) là toàn cây (trừ rễ) phơi khô của cây hoắc hương hay thổ hoặc hương – Agastache rugosa (Fisch. et Mey) O. Kuntze cùng họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae),

Chú thích về tên: Lá đậu tiếng Trung Quốc có nơi gọi là hoắc. Vì lá cây này giống lá cây đậu lại có mùi thơm cho lên gọi là hoắc hương.

Mô tả cây

Hoắc hương là một cây cỏ sống lâu năm, thân có phân nhánh, cao chừng 30cm đến 60 km. Trên thân có lông. Lá vò có mùi thơm. Lá có cuống ngắn, phiến lá hình trứng hay hình thuẫn, dài chừng 5-10cm, rộng 2,5-7cm, mép có răng cưa to, mặt dưới nhiều lòng hơn. Hoa màu hồng tím nhạt mọc thành bóng ở kẽ lá hay đầu cành. Tuy nhiên cây trồng ở Việt Nam hầu như không thấy có hoa và kết quả 

Ngoài loài hoắc hương kể trên, người ta còn dùng loài hoắc hương Agastache rugosa (Fisch, et Mey.) O. Kuntze, cùng họ. Đó là một loại cỏ sống hàng năm, cao chừng 40-100cm. Lá hình trứng dài 2-8cm, rộng 1-3cm, đầu lá nhọn phía cuống hơi hình tim, cuống dài 1-4cm, méo có răng cưa thô, to. Hoa mọc thành vòng quanh thân ở đầu cành hay kẽ lá. Cánh hoa màu tím hay màu trắng. Mùa hoa tháng 6-7; mùa quả tháng 10-11. Cây này cũng có mọc ở nước ta nhưng ít phổ biến hơn loài trên.

Hoắc Hương
Hoắc Hương

Phân bố, thu hái và chế biến

Cây hoắc hương được trồng nhiều nơi ở miền Bắc nước ta, chủ yếu lấy lá và cành làm thuốc. Nhiều nhất tại vùng Kim Sơn (Hà Nam), Hưng Yên. Tại Hà Nội, vườn thuốc Văn Điển có trồng thử. Thường trồng bằng giâm cành, vì cây không có hoa quả. Hiện việc nghiên cứu trồng chưa có kinh nghiệm chắc chắn.

Tại các nước khác tại vùng nhiệt đới châu Á và châu Phi, hoắc hương được trồng rất quy mô để lấy lá cất tinh dầu. Những nước sản xuất hoặc hương nhiều nhất hiện nay là Ấn Độ, Malaixia, Philippin, Mangak, Indonesia.

Hàng năm tại Malaysia thu hoạch chừng 500 tấn lá khô hoặc hương để cất tinh dầu, chưa kể còn sản xuất chừng 700 đến 1.000 tấn lá để xuất cảng nữa. Tại Mangat, vào năm 1925 đã sản xuất chừng hơn 5 tấn lá khô để cất tinh dầu, chưa kể số lá dùng để cất tinh dầu tiêu thụ trong nội địa.

Hiệu suất thu hoạch mỗi hecta hàng năm chừng 500kg lá khô.

Thành phần hoá học

Trong lá hoắc hương khô có chứa 0,5-0,6% tinh dầu. Thành phần chủ yếu của tinh dầu hoắc hương là cồn patchouli C15H26O, còn gọi là long não patchouli, chất andehyt xinamic, andehyt benzoic, eugenola, cadinen C16H24, sesquitecpen và azulen.

Long não patchouli là một rượu bậc 3, kết tinh dưới dạng tinh thể hình lục lăng, có khi kết tinh ngay trong tinh dầu.

Trong tinh dầu cất từ lá cây mọc ở Hà Nội (Nguyễn Xuân Dũng và cộng sự. J. Ess. Oil Res. 2,99-100, March-April, 1989) đã thấy còn patchouli chiếm 32-38%. Ngoài ra còn 10 thành phần khác được phát hiện trong đó có a-bunesine và a- guaiene

Có thể cất tinh dầu hoắc hương bằng lá tươi, nhưng tỷ lệ thấp, thường tinh dầu chỉ xuất hiện trong lá khô hoặc lá để thành đống cho hơi lên men và khô dần.

Hoạt chất khác chưa rõ.

Công dụng và liều dùng

Hiện nay hoặc hương có nhiều công dụng.

  1. Trong y học nhân dân, hoắc hương là một vị thuốc làm mạnh dạ dày, giúp sự tiêu hoá và ruột, dùng trong những trường hợp ăn không ngon, sôi bụng đau bụng đi ngoài, hôi miệng.

Còn dùng làm thuốc chữa cảm mạo, nhức đầu, mình mẩy đau đớn, triệu chứng cảm cúm.

Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột, dùng riêng hay phối hợp với vị thuốc khác.

  1. Trong kỹ nghệ nước hoa, hoắc hương là một nguyên liệu quý vì tinh dầu hoắc hương (oil of patchouli) là một tinh dầu thơm và định hương cao cap.

Đơn thuốc có hoặc hương

  1. Hoắc hương chính khí hay kiện tỳ chỉ tả lớn.

Hoắc hương 15g, tổ diệp (lá tía tô)10g, thương truật 8g, cam thảo 3g, trần bì 5g, đại táo 4 quả, hậu phác 3g, phục linh 6g. Tất cả tán thành bột chia thành gói 8-10g. Chữa ăn uống không tiêu, đau bụng đi ngoài. Người lớn ngày uống 2-5 gói (tối đa), cách một giờ uống một gói. Trẻ con dưới một tuổi không nên uống. Trẻ con từ 2-3 tuổi mỗi lần dùng 1/3 gói, 8-10 tuổi mỗi lần 1/2 gói.

  1. Đơn thuốc chữa ăn uống không tiêu, hay sôi bụng:

Hoắc hương 12g, thạch xương bổ 12g, hoa cây đại 12g, vỏ bưởi đào đốt cháy 6g. Tất cả tán nhỏ. Trước bữa ăn 20 phút uống với nước nóng, mỗi lần 2g. Ngày uống 3 lần.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!