Cảm lạnh thông thường là một bệnh nhiễm virus cấp tính, tự khỏi, ảnh hưởng đến đường hô hấp trên, đặc trưng với các triệu chứng hắt hơi, nghẹt mũi, chảy mũi, đau họng, ho, sốt nhẹ, đau đầu và cảm giác mệt mỏi.
Cảm lạnh thông thường là một bệnh do virus gây ra, nhẹ và tự khỏi, chủ yếu do rhinovirus gây nên. Việc giáo dục người chăm sóc là nền tảng trong quản lý bệnh. Hiện chưa có liệu pháp kháng virus dành cho các loại virus gây cảm lạnh thông thường, ngoại trừ cùm.
Diễn tiến của bệnh – Ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, các triệu chứng của cảm lạnh thông thường đạt đỉnh vào ngày thứ 2 đến ngày thứ 3 của bệnh và sau đó cải thiện dần trong vòng 10 đến 14 ngày. Một số ít trẻ có thể bị ho kéo dài, nhưng họ sẽ khỏi dần trong vòng 3 đến 4 tuần. Ở trẻ lớn và thanh thiếu niên, các triệu chứng thường hết trong vòng năm đến bảy ngày (lâu hơn ở người có bệnh phối nền hoặc hút thuốc lá).
Đánh giá lại (tái khám) – Việc đánh giá lại có thể cần thiết nếu các triệu chứng trở nặng (ví dụ: khó thở, khó nuốt, sốt cao) hoặc kéo dài hơn thời gian dự kiến. Các triệu chứng xấu đi hoặc kéo dài (ví dụ: ho dai dẳng) có thể cho thấy sự xuất hiện của biển chứng hoặc cần xem xét đến một chẩn đoán khác ngoài cảm lạnh thông thường (ví dụ: viêm xoang cấp do vi khuẩn, viêm phổi, ho gà).
Điều trị hỗ trợ – Chúng tôi thưởng khuyến nghị một hoặc kết hợp các biện pháp sau đây như điều trị đầu tay cho trẻ bị cảm lạnh thông thường. Mặc dù hầu hết các biện pháp này chưa được nghiên cứu trong thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, nhưng chúng tương đối ít tốn kém và ít có khả năng gây hại.
- Duy trì đủ dịch – Duy trì đủ lượng dịch trong cơ thể giúp làm loãng dịch tiết và làm dịu niêm mạc đường hô hấp.
- Uống nước ấm – Việc uống nước ấm (ví dụ: trà, súp gà) có thể làm dịu niêm mạc đường hô hấp, tăng tiết dịch nhầy ở mũi và làm loãng đờm, giúp dễ loại bỏ hơn. Các loại nước ấm này cần phù hợp với độ tuổi ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
- Dung dịch nước muối sinh lý tại chỗ – Dung dịch nước muối sinh lý tại chỗ có thể mang lại lợi ích, chỉ phí thấp và ít có khả năng gây hại hoặc cản trở quá trình hồi phục. Việc nhỏ muối sinh lý vào khoang mũi có thể tạm thời loại bỏ dịch mũi gây khó chịu, cải thiện quả trình làm sạch nhầy lông chuyển và gây co mạch (giúp giảm nghẹt mũi). Tác dụng phụ có thể bao gồm kích ứng niêm mạc hoặc chảy máu cam.
Ở trẻ sơ sinh, nước muối sinh lý tại chỗ được sử dụng bằng cách nhỏ mũi kèm với dụng cụ hút mũi bóng cao su. Ở trẻ lớn hơn, có thể sử dụng bình xịt nước muối sinh lý hoặc rửa mũi bằng dung dịch nước muối (ví dụ: chai bóp, hoặc dụng cụ rửa mũi). Điều quan trọng là dung dịch nước muối dùng để rửa mũi phải được pha từ nước vô trùng hoặc nước đóng chai; đã có báo cáo về các trường hợp viêm não do míp liên quan đến việc sử dụng nước máy để pha dung dịch rửa mũi.
Một bải phân tích tổng hợp năm 2015 gồm 5 thử nghiệm ngẫu nhiên (bao gồm 544 trẻ và 205 người lớn) kết luận rằng việc rửa mũi bằng dung dịch nước muối có thể mang lại lợi ích trong việc giảm nhẹ các triệu chứng nhiễm trùng đường hô hấp trên. Do các thước đo kết quả khác nhau nên không thể gộp kết quả lại. Trong thử nghiệm lớn nhất, việc rửa mũi bằng nước muối sinh lý giúp giảm nhẹ các triệu chứng, giảm nhu cầu sử dụng các liệu pháp khác, giảm tải phát triệu chứng và giảm số ngày nghỉ học.
- Không khí được làm ẩm – Máy tạo ẩm/máy phun sương có thể giúp tăng độ ẩm trong không khí, từ đó làm loãng dịch tiết ở mũi, mặc dù phương pháp này chưa được nghiên cứu đầy đủ. Điều quan trọng là cần hướng dẫn người chăm sóc vệ sinh máy tạo ẩm sau mỗi lần sử dụng theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất để giảm nguy cơ nhiễm trùng hoặc tổn thương do hít phải hơi nước không an toàn.
Chúng tôi không khuyến cáo sử dụng hơi nước nóng hoặc không khí ẩm được làm nóng như một phương pháp điều trị triệu chứng nghẹt mũi ở trẻ bị cảm lạnh. Xông hơi nước nóng hoặc không khí ẩm nóng không làm giảm triệu chứng và có thể gây bỏng.
Một phân tích tổng hợp năm 2017 của 6 thử nghiệm ngẫu nhiên (387 người tham gia) đánh giá hiệu quả của việc hít không khí ẩm được làm nóng đối với các triệu chứng cảm lạnh cho thấy lợi ích không đồng nhất. Một thử nghiệm ngẫu nhiên khác với 899 bệnh nhân (từ 3 tuổi trở lên), không được đưa vào bài phân tích tổng hợp này, cũng cho thấy việc khuyến cáo xông hơi nước không làm giảm triệu chứng của nhiễm trùng hô hấp cấp tỉnh.
WHO khuyến cáo không nên khuyến khích xông hơi nước nóng hay phun sương mát trong điều trị ho hoặc cảm lạnh.
Thuốc không kê đơn – Các sản phẩm không kê đơn (OTC) dùng để giảm triệu chứng cảm lạnh ở trẻ em bao gồm thuốc kháng histamin, thuốc giảm nghẹt mũi, thuốc giảm ho, thuốc long đờm, thuốc tiêu nhầy, thuốc hạ sốt/giảm đau và các chế phẩm kết hợp các loại thuốc này.
- Trẻ < 6 tuổi – Ngoại trừ thuốc hạ sốt/giảm đau, nên tránh sử dụng các loại thuốc OTC để
điều trị cảm lạnh ở trẻ dưới 6 tuổi, - Trẻ từ 6 đến 12 tuổi – Ngoại trừ thuốc hạ sốt/giảm đau, chúng tôi khuyến cáo không nên sử dụng thuốc OTC điều trị cảm lạnh ở trẻ từ 6 đến 12 tuổi.
- Thanh thiếu niên ≥ 12 tuổi – Thuốc thông mũi OTC có thể giúp giảm triệu chứng nghẹt mũi ở thanh thiếu niên từ 12 tuổi trở lên.
Trong các thử nghiệm ngẫu nhiên và phân tích tổng hợp, các thuốc không kê đơn (OTC) chưa được chứng minh là hiệu quả hơn giá được ở trẻ em và có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng. Các thuốc ho và cảm lạnh OTC đã được ghi nhận là có liên quan đến các trường hợp quá liều gây tử vong ở trẻ dưới 2 tuổi. Thuốc OTC có nguy cơ gây độc cao hơn ở trẻ nhỏ vì quá trình chuyển hóa, đào thải và tác dụng của thuốc có thể khác nhau tùy theo độ tuổi. Các khuyến cáo về liều dùng an toàn vẫn chưa được thiết lập một cách đầy đủ cho trẻ em.
Nếu người chăm sóc lựa chọn sử dụng thuốc không kê đơn (OTC) để điều trị cảm lạnh cho trẻ trên 6 tuổi, họ nên được khuyến cáo sử dụng các loại thuốc đơn thành phần, tập trung vào triệu chứng gây khó chịu nhất, đồng thời cần được cung cấp hướng dẫn đầy đủ về liều lượng, cách bảo quản và cách sử dụng nhằm tránh nguy cơ ngộ độc. Ví dụ, nếu dốc ngược chai thuốc thay vì giữ thẳng đúng khi nhỏ thuốc vào mũi, liều thuốc có thể vượt mức khuyến cáo từ 20 đến 30 lần. Giống với tất cả các loại thuốc khác, các thuốc ho và cảm lạnh OTC cần được giữ ngoài tầm với của trẻ em.
Cảm lạnh do SARS-CoV-2 gây ra – Việc điều trị hỗ trợ và điều trị triệu chứng cho trẻ bị cảm lạnh do virus SARS-CoV-2 (tác nhân gây bệnh COVID-19) gây ra tương tự đối với cảm lạnh do các loại virus khác.
ĐIỀU TRỊ TRIỆU CHỨNG
Các triệu chứng của cảm lạnh thông thường không cần phải điều trị trừ khi chúng gây phiền toái cho trẻ hoặc các thành viên khác trong gia đình (ví dụ: làm gián đoạn giấc ngủ, cản trở việc uống nước, gây khó chịu). Các biện pháp điều trị triệu chứng có những rủi ro và lợi ích đi kèm, đặc biệt là ở trẻ nhỏ.
Khó chịu do sốt – Chúng tôi khuyến cáo nên điều trị tỉnh trạng khó chịu do sốt trong vài ngày đầu cảm lạnh bằng acetaminophen (cho trẻ trên 3 tháng tuổi) hoặc ibuprofen (cho trẻ trên 6 tháng tuổi).
Khi đề nghị sử dụng thuốc hạ sốt và giảm đau, các bác sĩ lâm sàng cần tư vấn cho người chăm sóc tránh việc sử dụng đồng thời các loại thuốc không kê đơn dạng phối hợp, nhằm ngăn ngừa tình trạng quá liều do nhiều loại thuốc chứa cùng một thành phần (ví dụ, acetaminophen).
Triệu chứng ở mũi – Các triệu chứng ở mũi bao gồm viêm mũi và nghẹt mũi/tắc mũi. Tình trạng tắc mũi có thể cản trở việc bú hoặc uống và có thể là triệu chứng gây khó chịu nhất ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
- Điều trị đầu tay – Đối với điều trị đầu tay các triệu chứng mũi gây khó chịu, chúng tôi khuyến cáo sử dụng một hoặc nhiều biện pháp hỗ trợ (ví dụ: hút mũi, nhỏ mũi nước muối sinh lý, xịt hoặc rửa mũi bằng nước muối, duy trì đủ nước, máy phun sương mát) thay vì dùng thuốc không kê đơn. Mặc dù các biện pháp hỗ trợ này chưa được chứng minh là có hiệu quả trong các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, nhưng cảm lạnh thông thường là một bệnh tự khỏi và các biện pháp hỗ trợ này an toàn và ít tốn kém.
- Điều trị hàng thứ hai – Các biện pháp can thiệp hàng thứ hai đối với các triệu chứng mũi gây khó chịu không cải thiện sau khi đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ khác nhau tùy theo độ tuổi:
- Trẻ dưới 6 tuổi – Đối với trẻ dưới 6 tuổi có các triệu chứng mũi gây khó chịu kéo dải dù đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ, chúng tôi thường khuyến cáo tăng tần suất hút mũi, xịt hoặc rửa mũi. Chúng tôi không sử dụng thuốc không kê đơn trong điều trị triệu chứng mũi ở trẻ dưới 6 tuổi, do hiệu quả chưa được chứng minh và có thể đi kèm với rủi ro. Thuốc xịt mũi Ipratropium 0.06% có thể được kê đơn cho trẻ trên 5 tuổi và có thể được cân nhắc trong từng trường hợp cụ thể. Liều dùng là xịt hai nhát vào mỗi bên mũi, ba lần mỗi ngày trong vòng 4 ngày.
- Trẻ từ 6 đến 12 tuổi – Đối với trẻ trong độ tuổi từ 6 đến 12 có các triệu chứng mũi gây khó chịu không đáp ứng với các biện pháp hỗ trợ, chúng tôi thường khuyến nghị tăng tần suất hút mũi, xịt mũi hoặc rửa mũi thay vì sử dụng các can thiệp khác. Chúng tôi không khuyến cáo sử dụng thuốc thông mũi không kê đơn hoặc thuốc phối hợp thông mũi/kháng histamin, do bằng chứng về hiệu quả còn hạn chế và có nguy cơ kèm theo. Thuốc xịt mũi ipratropium có thể được kê đơn và có thể được cân nhắc sử dụng tùy trường hợp cụ thể.
Liều dùng thay đổi theo độ tuổi:
– Từ 6 đến 11 tuổi – Ipratropium 0.06% dạng xịt mùi, xịt hai nhát mỗi bên mũi, ba lần mỗi ngày, trong 4 ngày.
– Từ 12 tuổi trở lên – Ipratropium 0.06% dạng xịt mũi, xịt hai nhát vào mỗi bên mũi, ba đến bốn lần mỗi ngày, trong 4 ngày.
Trong một bài tổng quan gồm bảy thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, so sánh giữa ipratropium dạng xịt mũi và giả dược trên trẻ tử ≥ 5 tuổi và người lớn, ipratropium có hiệu quả trong việc giảm cảm giác chảy mũi, nhưng không cải thiện tỉnh trạng nghẹt mũi. Tác dụng phụ (chảy máu mũi, khô mũi, khô miệng) xảy ra ở nhóm dùng ipratropium cao hơn khoảng 2 đến 4 lần so với nhóm dùng giả dược.
-
- Trẻ 12 tuổi trở lên – Đối với trẻ từ 12 tuổi trở lên có các triệu chứng mùi gây khó chịu không cải thiện sau khi đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ, chúng tôi khuyển nghị sử dụng thuốc thông mũi không kê đơn (dạng uống hoặc dạng xịt) hoặc thuốc xịt mùi ipratropium.
Thuốc thông mũi (dạng uống hoặc dạng xịt) hoạt động bằng cách gây co mạch niêm mạc mũi, giúp giảm sung huyết.
– Chúng tôi ưu tiên sử dụng pseudoephedrine đường uống so với phenylephrine và các thuốc thông mũi đường uống không kê đơn khác. Ngoài ra, FDA đã đề xuất cấm sử dụng phenylephrine đường uống. Tác dụng phụ của thuốc thông mũi đường uống có thể bao gồm nhịp tim nhanh, tăng huyết áp tâm trương và đánh trống ngực.
– Các thuốc thông mũi dạng xịt phổ biến bao gồm oxymetazoline, xylometazoline và phenylephrine. Tác dụng phụ của thuốc xịt thông mũi bao gồm chảy máu cam và khô niêm mạc mũi. Chỉ nên sử dụng thuốc thông mũi dạng xịt trong 2-3 ngày; nếu dùng kéo dài có thể gây hiện tượng nghẹt mũi sau khi ngừng thuốc.
Một bài tổng quan năm 2016 cho thấy bằng chứng chất lượng thấp của việc sử dụng nhiều liều thuốc thông mũi đường uống và/hoặc xịt có thể giúp cải thiện cảm giác nghẹt mũi ở người lớn. Không có nghiên cứu nào so sánh trực tiếp giữa thuốc thông mũi đường uống và dạng xịt. Trong các thử nghiệm ngẫu nhiên trên người lớn bị viêm mũi dị ứng, pseudoephedrine đường uống hiệu quả hơn phenylephrine và giả được trong việc giảm nghẹt mũi, trong khi phenylephrine không cho thấy hiệu quả vượt trội so với giả được.

Ho – Ho có thể ảnh hưởng đến giấc ngủ, khả năng học tập và vui chơi của trẻ, đồng thời cũng có thể làm gián đoạn giấc ngủ của các thành viên trong gia đình và gây phiền nhiều trong lớp học. Mặc dù người chăm sóc thường mong muốn có biện pháp để ức chế cơn ho, họ cần hiểu rằng ho là cơ chế làm sạch dịch tiết khỏi đường hô hấp, và việc ức chế họ có thể gây ứ đọng dịch tiết và gây tắc nghẽn đường thở, tiềm ẩn nguy cơ nguy hiểm.
Chúng tôi khuyến cáo làm dịu kích ứng đường thở gây ho bằng các biện pháp như uống đủ nước, dùng đồ ẩm (ví dụ: trà, súp gà), mật ong (cho trẻ trên 1 tuổi), hoặc viên kẹo ngậm (áp dụng cho trẻ không có nguy cơ hóc sặc), thay vì sử dụng các thuốc ức chế ho, kháng histamin, thuốc long đờm hoặc tiêu nhầy không kê đơn hay kê đơn. Những biện pháp như nước ấm, mật ong, viên ngậm có chí phí thấp và ít có khả năng gây hại, mặc dù hiệu quả của chúng chỉ mang tính giả dược.
- Uống đủ nước và dùng nước ấm
- Mật ong – Chúng tôi khuyến cáo sử dụng mật ong như một lựa chọn điều trị ho ở trẻ từ 1
tuổi trở lên mắc cảm lạnh thông thường. Mật ông (liều 2.5 đến 5 ml (tương đương 0.5 đến 1 thìa cà phê)) có thể cho trẻ uống trực tiếp hoặc pha loãng. Nếu không có mật ong, có thể thay bằng siro ngô. Mật ong có hiệu quả khiêm tốn trong việc giảm ho về đêm và ít gây hại ở trẻ trên 1 tuổi. Không nên dùng mật ong cho trẻ dưới 1 tuổi do nguy cơ ngộ độc vì khuẩn Clostridium botulinum.
Một phân tích tổng hợp 14 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng so sánh mật ong với các can thiệp khác ở cả trẻ em và người lớn bị nhiễm trùng hô hấp trên cho thấy mật ong có hiệu quả hơn so với chăm sóc thông thường (ví dụ: giả dược, diphehydramine, dextromethorphan). Mật ong giúp giảm tần suất họ và giảm mức độ nghiêm trọng của họ. Trong các so sánh trực tiếp, mật ong hiệu quả hơn diphehydramine và tương đương dextromethorphan trong việc giảm tần suất và mức độ ho. Tá dụng phụ hiếm gặp và thưởng nhẹ (ví dụ: buồn nôn).
Với độ an toàn tương đối cao và chi phí thấp, WHO và AAP đều khuyến nghị sử dụng mặt ong như một phương pháp điều trị ho tiềm năng ở trẻ nhỏ trên 1 tuổi. ACCP cũng cho rằng mật ong hiệu quả hơn giá được trong điều trị ho do cảm lạnh thông thường.
- Viêm ngậm ho – Chúng tôi khuyến nghị sử dụng viên ngậm ho như một lựa chọn điều trị ho ở trẻ không có nguy cơ hóc sặc. Mặc dù chưa có bằng chứng từ các thử nghiệm có đổi chứng cho thấy viêm ngặm có hiệu quả trong việc giảm ho, những sản phẩm này ít có khả năng gây hại. AAP khuyến nghị rằng viên ngậm ho có thể được sử dụng để làm dịu cổ họng bị kích ứng ở trẻ trên 6 tuổi.
Chúng tôi không sử dụng codeine hoặc các thuốc ức chế họ khác (ví dụ: dextromethorphan) để điều trị ho do cảm lạnh ở trẻ em, vì chúng tiềm ẩn nguy cơ gây hại mà không có lợi ích được chứng mình. Tác dụng phụ của codeine ở trẻ em bao gồm buồn ngủ, ức chế hô hấp và thậm chí tử vong, trong khi đó, dextromethorphan có thể gây rối loạn hành vi và ức chế hô hấp.
AAP khuyến cáo không nên sử dụng các thuốc chứa codeine và dextromethorphan để điều trị ho liên quan đến nhiễm virus đường hô hấp, do thiểu các nghiên cứu có kiểm soát tốt chứng minh hiệu quả và độ an toàn. Một nghiên cứu thử nghiệm nhỏ so sánh hiệu quả ức chế ho của dextromethorphan so với giá được trên 128 trẻ từ 6 đến 12 tuổi cho thấy nhóm dùng dextromethorphan giảm tần suất họ và mức độ ho. Tuy nhiên, cần có thêm các thử nghiệm lâm sàng đánh giả độ an toàn và hiệu quả của dextromethorphan ở trẻ em trước khi có thể đưa ra khuyến nghị sử dụng.
FDA khuyến cáo không sử dụng các thuốc ho và cảm lạnh kê đơn chức codeine hoặc hydrocodone cho trẻ em và thanh thiếu niên dưới 18 tuổi. EMA cũng khuyến cáo không sử dụng codeine để điều trị ho và cảm lạnh ở trẻ dưới 12 tuổi cũng như trẻ từ 12 đến 18 tuổi có bệnh lý hô hấp (ví dụ: hen).
WHO cũng khuyến cáo không sử dụng các chế phẩm chứa codeine để điều trị ho ở trẻ em, nhưng gợi ý rằng dextromethorphan có thể được cân nhắc trong những trường hợp đặc biệt, khi ho kéo dài nghiêm trọng ảnh hưởng đến việc ăn uống hoặc giấc ngủ. Trong những trường hợp như vậy, cần cân nhắc đến các chẩn đoán khác ngoài cảm lạnh thông thường (ví dụ: ho gà, hen suyễn, viêm phổi).
Guaifenesin
Người lớn và trẻ em từ 12 tuổi trở lên nên dùng 200 mg (10 mL), 4 lần mỗi ngày; đối với các sản phẩm được cấp phép cho trẻ em, liều dùng là 100 mg, 4 lần mỗi ngày. Các sản phẩm chứa guaifenesin không có cảnh báo đặc biệt khi sử dụng và hầu như không gây | tác dụng phụ, chúng cũng không có tương tác thuốc đáng kể trên lâm sảng.
Dextromethorphan
Vì là một dẫn xuất của nhóm opioid, dextromethorphan có thể tương tác với các thuốc kê đơn và thuốc không kê đơn, đặc biệt là những thuốc có khả năng đi qua hàng rào máu não. Khi dùng kết hợp, các thuốc này có thể làm tăng tác dụng an thần, do đó cần cảnh báo người bệnh về điều này, mặc dù việc sử dụng ngắn hạn thưởng không cần điều chỉnh liều.
Dextromethorphan cũng có thể làm tăng nguy cơ hội chứng serotonin nếu dùng cùng các thuốc khác có thể gây ra tình trạng này, như thuốc ức chế monoamine oxidase, thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc hoặc tramadol.
Cần thận trong khi dùng cho bệnh nhân bị hen suyễn, vì trên lý thuyết, có thể gây ức chế hô hấp. Đối với người lớn và trẻ trên 12 tuổi, hiện có nhiều sản phẩm chứa dextromethorphan. Liều | dùng tiêu chuẩn của các sản phẩm này là 10 ml., 4 lần mỗi ngày.
Thuốc kháng histamine
Việc sử dụng thường quy thuốc kháng histamine không được khuyến cáo trong điều trị ho khan. Tuy nhiên, tác dụng an thần của một số thuốc kháng histamin đôi khi có thể hữu ích, giúp bệnh nhân ngủ ngon giấc suốt đêm mà không bị gián đoạn. Thuốc kháng histamin có thể tương tác với các thuốc an thần khác, làm tăng cường tác dụng an thần của thuốc dùng kèm. Chúng cũng có thể có tác dụng phụ kháng muscarinic, thường gây khô miệng và có thể gây táo bón. Do cáctác dụng phụ kháng muscarinic này, bệnh nhân bị tăng nhãn áp và phì đại tuyển tiền liệt nên | tránh sử dụng thuốc kháng histamin, vì có thể làm tăng áp lực nội nhân và gây bị tiểu.
CÁC TRIỆU CHỨNG DAI DẲNG
Triệu chứng ở mũi dai dẳng – Cần xem xét các chẩn đoán khác ngoài cảm lạnh thông thường ở những trẻ có chảy dịch mũi nghiêm trọng hơn hoặc kéo dài hơn so với dự kiến khi bị cảm lạnh (vi dụ: kéo dài hơn 10 ngày mà không cải thiện hoặc có xu hướng nặng lên).
Các chẩn đoán thay thế có thể bao gồm:
- Dị vật trong mũi
- Viêm mũi dị ứng, viêm mũi không do dị ứng, viêm mũi do thuốc
- Viêm xoang cấp do vi khuẩn
Họ kéo dài – Cần cân nhắc các chẩn đoán khác ngoài cảm lạnh thông thường ở những trẻ có ho nghiêm trọng hơn hoặc kéo dài hơn dự kiến khi bị cảm lạnh (ví dụ: kéo dài hơn 2 tuần mà không cải thiện hoặc có xu hướng nặng lên).
Các chẩn đoản thay thể có thể bao gồm: viêm phổi, hen suyễn, ho gà, xơ nang hoặc hít phải dị vật, cùng với một số nguyên nhân khác.
CÁC ĐIỀU TRỊ KHÁC CHƯA CÓ BẰNG CHỨNG
Kháng sinh – Không có vai trò của kháng sinh trong điều trị cảm lạnh thông thường. Kháng sinh không làm thay đổi tiến triển của bệnh cảm lạnh và không ngăn ngừa được các biến chứng thứ phát, nhưng có thể gây ra tác dụng phụ đáng kể và góp phần làm gia tăng tình trạng khảng kháng sinh của vi khuẩn. Việc sử dụng kháng sinh nên giới hạn trong những trường hợp được chẩn đoán rõ ràng là nhiễm khuẩn thứ phát, bao gồm viêm tai giữa do vi khuẩn, viêm xoang, và viêm phổi.
Thuốc kháng histamin – Chúng tôi không khuyến nghị sử dụng thuốc kháng histamin để điều trị cám lạnh thông thường. Trong các thử nghiệm ngẫu nhiên, các thuốc kháng histamin đơn độc lẫn thuốc phối hợp kháng histamin – thuốc thông mũi đều không hiệu quả trong cải thiện các triệu chứng mũi hoặc ho ở trẻ bị cảm lạnh. Ngoài ra, những thuốc này có thể gây ra các tác dụng phụ, bao gồm buồn ngủ, ức chế hô hấp, ảo giác và tăng nguy cơ co giật. Diphehydramine còn được ghi nhận là thuốc không kê đơn thường gặp nhất có liên quan đến các trường hợp tử vong ở trẻ em.
Glucocorticosteroid xịt mũi – Chúng tôi không khuyến nghị sử dụng corticosteroid xịt mũi để điều trị các triệu chứng mũi trong cảm lạnh thông thường. Một bài tổng quan năm 2015 trên ba thử nghiệm lâm sàng (353 người tham gia) cho thấy không có lợi ích rõ ràng.
Thuốc ho – Chúng tôi không khuyến nghị sử dụng các thuốc ức chế ho kẻ đơn (như codeine) hoặc không kê đơn (như dextromethorphan) để điều trị họ ở trẻ bị cảm lạnh thông thường. Hiệu quả của các thuốc này chưa được chứng minh, và chúng có thể gây độc tỉnh nghiêm trọng. AAP khuyến cáo không sử dụng các thuốc chứa codeine và dextromethorphan để điều trị ho liên quan đến nhiễmvirus đường hô hấp, vì không có nghiên cứu có kiểm soát chặt chẽ nào chứng minh được hiệu quả và độ an toàn của các thuốc này. FDA cũng khuyến cáo không nên sử dụng các loại thuốc ho và thuốc cám kê đơn có chứa codeine hoặc hydrocodone cho trẻ em và thanh thiếu niên dưới 18 tuổi.
Thuốc long đờm và thuốc tiêu nhầy – Chúng tôi khuyến cáo không nên sử dụng các thuốc long đờm không kê đơn (ví dụ: guaifenesin) hoặc thuốc tiêu nhầy (ví dụ: acetylcystein, bromhexin, letosteine) để điều trị ho ở trẻ bị cảm lạnh thông thường. Thuốc long đờm làm tăng tiết chất nhầy, còn thuốc tiêu nhầy giúp làm loãng dịch tiết đường hô hấp, nhằm giúp việc tống xuất đờm dễ dàng hơn. Tuy nhiên, không có bằng chứng rõ ràng nào cho thấy các thuốc này có lợi cho trẻ em. Riêng guaifenesin không có lợi ích rõ ràng đã được chính mình, nhưng nhìn chung khá an toàn, chỉ gây kích ứng nhẹ đường tiêu hóa. Tuy nhiên, trong các thuốc không kê đơn, guaifenesin thường được kết hợp với các thành phần khác. Tác dụng phụ của thuốc tiêu nhầy có thể bao gồm: co thắt phế quản, rối loạn tiêu hóa và sốt.
Thuốc giãn phế quản – Chúng tôi không khuyến cáo sử dụng thuốc giãn phế quản để điều trị ho ở trẻ không bị hen khi mắc cảm lạnh thông thường. Thuốc giãn phế quản không có hiệu quả đối với họ cấp tỉnh ở trẻ không bị hơn. Tuy nhiên, trẻ bị hen suyễn nếu bị cảm lạnh nên sử dụng thuốc giãn phế quản tác dụng nhanh (thuốc cắt cơn) theo hướng dẫn trong kế hoạch quản lý hen.
Tinh dầu thơm bôi ngoài da – Chúng tôi không khuyến cáo sử dụng các loại tinh dầu thơm bôi ngoài da (ví dụ: menthol, long não, tinh dầu khuynh diệp) để điều trị nghẹt mũi hoặc ho ở trẻ em bị cảm lạnh thông thường.
Vitamin, khoáng chất và các sản phẩm thảo dược
- Vitamin C – Chúng tôi không khuyến cáo sử dụng vitamin C để điều trị cảm lạnh thông thường ở trẻ em. Trong một phân tích gộp năm 2013 từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, vitamin C (2 200 mg/ngày) được sử dụng sau khi bắt đầu có triệu chứng không làm giảm thời gian (7 thử nghiệm, 3249 đợt cảm lạnh) hoặc mức độ nặng (4 thử nghiệm, 2708 đợt cảm lạnh) của các triệu chứng cảm lạnh. Không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào được báo cáo.
- Kẽm – Chúng tôi không khuyến cáo sử dụng kêm để điều trị cảm lạnh thông thường ở trẻ em. Hiệu quả của kẽm trong việc rút ngắn thời gian hoặc giảm mức độ nặng của triệu chứng cảm lạnh ở trẻ em vẫn chưa rõ ràng, và các tác dụng phụ khá thường gặp. Tác dụng phụ như vị khó chịu và buồn nôn, rất thường gặp và có thể là lý do khiến kẽm không phù hợp để sử dụng cho trẻ em. Các sản phẩm kẽm dạng xịt mũi, bao gồm kêm gluconat dạng vi lượng đồng căn dùng qua đường mũi, đã được bảo cáo là có thể gây mất khứu giác kéo dài hoặc vĩnh viễn, và không được khuyến cáo sử dụng cho trẻ em.
PHÒNG NGỪA
Chăm sóc trẻ và đi lớp – CDC khuyến cáo trẻ bị cảm lạnh thông thường, bao gồm cả nhiễm SARS-CoV-2 nên nghỉ ở nhà ít nhất 24 giờ sau khi triệu chứng cải thiện và hết sốt.