CON CỦA MẸ CÓ NHÓM MÁU RH ÂM

CON CỦA MẸ CÓ NHÓM MÁU RH ÂM

Nhóm máu RH âm là gì?

Tế bào hồng cầu của người mang nhiều loại kháng nguyên trên bề mặt của chúng. Trong số đó, hệ nhóm máu ABO và Rh là hai thứ quan trọng nhất. Trong Rh, kháng nguyên D là kháng nguyên quan trọng nhất. Những người có kháng nguyên Rhesus D (RhD) được gọi là RhD dương tính, trong khi những người không có kháng nguyên này được gọi là RhD âm tính.

Trong thai kỳ, một lượng nhỏ máu của thai nhi có thể xâm nhập vào tuần hoàn của người mẹ, hiện tượng này được gọi là xuất huyết mẹ – thai nhi (FMH – feto-maternal haemorrhage). Sự hiện diện của tế bào máu RhD dương tính của thai nhi trong tuần hoàn của người mẹ RhD âm tính có thể kích thích hệ miễn dịch của mẹ, dẫn đến việc hệ miễn dịch sản xuất kháng thể, đồng thời tạo ra một lượng kháng thể chống lại kháng nguyên RhD (gọi là kháng thể anti-D). Quá trình này được gọi là mẫn cảm (sensitisation) hay miễn dịch dị thể (alloimmunisation) (NICE 2008).

Sàng lọc trước sinh để xác định nhóm máu và kháng thể nên được thực hiện cho tất cả phụ nữ mang thai trong buổi khám thai đầu tiên, bất kể kết quả sàng lọc trước đó, như một phần tích hợp trong chăm sóc thai kỳ. Tất cả phụ nữ có nhóm máu RhD âm tính cần được cung cấp thông tin bằng lời nói và bằng văn bản về việc dự phòng bằng kháng thể Anti-D trong giai đoạn trước và sau sinh, đồng thời có cơ hội trao đổi về phương pháp điều trị này với nữ hộ sinh trong thời kỳ mang thai (ASW, 2010).

Nguy cơ mẫn cảm được giảm bớt bằng cách tiêm globulin miễn dịch Anti-D cho phụ nữ trong những tình huống có khả năng xảy ra xuất huyết mẹ – thai nhi (FMH). Liệu pháp dự phòng Anti-D trước sinh định kỳ được khuyến nghị như một lựa chọn điều trị cho tất cả phụ nữ mang thai có nhóm máu RhD âm tính và chưa bị mẫn cảm với kháng nguyên RhD (NICE, 2008).

Trong giai đoạn sau sinh, globulin miễn dịch Anti-D nên được tiêm cho mọi phụ nữ RhD âm tính chưa bị mẫn cảm trong vòng 72 giờ sau khi sinh con RhD dương tính (NICE, 2008). Nếu không thể thực hiện trong khoảng thời gian này, vẫn có thể mang lại một phần tác dụng bảo vệ nếu tiêm trong vòng 10 ngày sau sự kiện gây mẫn cảm (British Committee for Standards in Haematology, 2014). Globulin miễn dịch Anti-D nên được tiêm bắp vào cơ delta.

Dự phòng các sự kiện có khả năng gây mẫn cảm trong thai kỳ

Globulin miễn dịch Anti-D nên được chỉ định cho tất cả phụ nữ RhD âm tính chưa bị mẫn cảm sau các sự kiện có khả năng gây mẫn cảm trong thai kỳ sau đây:

  • Thủ thuật xâm lấn trước sinh (chọc ối, sinh thiết gai nhau, lấy máu thai nhi, giảm số lượng phôi)
  • Xuất huyết trước sinh chảy máu âm đạo
  • Chấn thương vùng bụng
  • Sảy thai đình chỉ thai nghén bằng thuốc
  • Thủ thuật xoay thai ngoài
  • Thai chết trong tử vong (từ 20 tuần trở lên)
  • Thai chết lưu
  • Thai ngoài tử cung hoặc thai trứng

Điều trị các sự kiện gây mẫn cảm

Sau một sự kiện có khả năng gây mẫn cảm, nên chỉ định tiêm dự phòng Anti-D liều 500 IU.

Trong 20 tuần thai, không cần lấy mẫu Kleihauer để đo mức độ xuất huyết mẹ – thai nhi (FMH), vì ở giai đoạn này chưa có đủ tế bào tạo máu của thai nhi trong tuần hoàn để cần phải đo lường, và liều 500 IU Anti-D là đủ để bảo vệ.

Nếu sản phụ đồng ý tiêm Anti-D, thuốc nên được tiêm trong vòng 72 giờ sau sự kiện (ASW, RCOG 2002b).

Nhãn truy xuất nguồn gốc Anti-D cần được gửi lại Ngân hàng máu càng sớm càng tốt, theo quy định pháp lý là trong vòng 48 giờ, nhằm đảm bảo khả năng truy xuất đầy đủ sản phẩm. Việc tiêm Anti-D cần được ghi lại trong hồ sơ y tế của bệnh nhân, bao gồm số lô và trong hồ sơ thai sản điện tử.

Tất cả phụ nữ báo cáo một sự kiện có khả năng gây mẫn cảm khi liên hệ với nhân viên y tế nên được chuyển đến Đơn vị Sản Phụ Khoa để được đánh giá và quản lý phù hợp.

Hướng dẫn quản lý các sự kiện gây mẫn cảm tiềm ẩn

Liệu pháp dự phòng Anti-D trước sinh định kỳ được khuyến nghị như một lựa chọn điều trị cho tất cả phụ nữ mang thai có nhóm máu RhD âm tính và chưa bị mẫn cảm với kháng nguyên RhD (NICE, 2008).

Nếu không được điều trị dự phòng, tình trạng mẫn cảm xảy ra ở 10–15% phụ nữ RhD âm tính do thai kỳ. Hiện nay, nguy cơ mẫn cảm ở Vương quốc Anh vào khoảng 1 trên 21.000 ca sinh. Tại Anh và xứ Wales, mỗi năm có khoảng 500 thai nhi mắc bệnh tan máu (HDFN), trong đó 20–30 trường hợp tử vong mỗi năm.

Khi mẫn cảm đã xảy ra, không thể đảo ngược và có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thai kỳ hiện tại hoặc các thai kỳ sau cũng như gây khó khăn khi cần truyền máu (ASW, 2007).

Việc xác định phụ nữ có nhóm máu RhD âm tính sau buổi khám thai cần được thực hiện kịp thời. Trong buổi khám với nữ hộ sinh ở tuần thứ 16 cần giải thích trực tiếp cho thai phụ về ý nghĩa của việc có nhóm máu Rh âm tính, đồng thời cung cấp tờ thông tin cho bệnh nhân “Dự phòng Anti-D trong thai kỳ”.

Hướng dẫn điều trị dự phòng Anti-D tại phòng khám

Sau khi xác định phụ nữ có nhóm máu Rh âm:

Hiện chưa có dữ liệu so sánh trực tiếp để đánh giá hiệu quả giữa một liều duy nhất (1500 IU) và hai liều nhỏ hơn (500 IU) của Anti-D.

Theo NICE 2008, nên sử dụng chế phẩm Anti-D có hiệu quả chi phí cao nhất tại địa phương. Việc tiêm một liều duy nhất được xem là hiệu quả hơn về chi phí, tuân thủ điều trị và tính thuận tiện (NICE, 2008).

  • Cuộc hẹn tiêm Anti-D nên được lên lịch trong khoảng từ 28 đến 32 tuần thai.

Vào ngày tiêm:

  • Nữ hộ sinh phải đảm bảo hộp thuốc điều trị sốc phản vệ có sẵn trong phòng và được kiểm tra hàng ngày.
  • Kiểm tra thai phụ và hồ sơ thai sản xem mẫu máu xét nghiệm nhóm máu và công thức máu ở tuần 28 đã được lấy chưa.
  • Sau khi được giải thích đầy đủ và có sự đồng ý của thai phụ, tiến hành tiêm 1500 IU Anti-D đường tiêm bắp vào cơ delta, đồng thời xác định chính xác danh tính bệnh nhân trước khi tiêm.

Điều trị dự phòng sau sinh

Hoàn thành phiếu ngân hàng máu cho mẫu máu dây rốn/máu trẻ sơ sinh, bao gồm thông tin của trẻ và số hồ sơ bệnh án, yêu cầu xác định nhóm máu và ghi rõ rằng người mẹ sau sinh có nhóm máu RhD âm tính. Thu thập 5 ml máu dây rốn vào ống nghiệm nắp màu hồng. Máu dây rốn được ưu tiên hơn so với mẫu máu lấy sau khi sinh, vì thường có lượng đủ lớn hơn, dễ phân tích hơn và cho kết quả nhanh hơn.

Lấy 2 mẫu máu mẹ, mỗi mẫu 5 ml, cho vào hai ống nghiệm nắp hồng. Không nên lấy máu mẹ sớm hơn 30–45 phút sau khi sổ thai, và thực hành tốt nhất là lấy mẫu trong vòng 2 giờ sau sinh.

Nếu có thể, gửi các mẫu cùng nhau trong cùng một túi để duy trì tính liên kết.

Nếu người mẹ có kháng thể (Rhesus, D, c hoặc KELL), gửi mẫu máu dây rốn để làm xét nghiệm Coombs, xác định nhóm máu ABO & Rh, Hb và bilirubin huyết thanh. Thông báo cho bác sĩ Nhi Khoa về ca sinh.

Nếu trẻ có nhóm máu RhD dương tính, 500 IU Anti-D sẽ được cấp phát để tiêm cho người mẹ. Nếu thể tích xuất huyết mẹ – thai nhi (FMH) > 4 ml, có thể cần liều Anti-D lớn hơn.

Nếu trẻ có nhóm máu RhD âm tính, không cần tiêm Anti-D và điều này cần được ghi rõ trong hồ sơ của mẹ và trong lộ trình chăm sóc sau sinh.

Lượt dịch: NT HN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

https://wisdom.nhs.wales/health-board-guidelines/c-vmantenatalcarefile/anti-d-prophylaxis-for-women-who-are-rhesus-d-rhd-negative/

 

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

THÔNG TIN TƯ VẤN