Lượt dịch: NT HN
Viêm dạ dày ruột cấp được định nghĩa là một bệnh tiêu chảy khởi phát nhanh, có thể có hoặc không kèm theo buồn nôn, nôn, sốt hoặc đau bụng. Tại Hoa Kỳ, viêm dạ dày ruột cấp gây ra khoảng 1,5 triệu ca khám ngoại trú, 200.000 ca nhập viện và 300 ca tử vong ở trẻ em mỗi năm. Khi đánh giá một trẻ mắc viêm dạ dày ruột cấp, cần khai thác kĩ về lượng dịch đã uống và lượng nước tiểu. Mất nước đáng kể thường ít xảy ra nếu cha mẹ nói rằng trẻ không giảm lượng uống, không giảm lượng nước tiểu và không nôn ói. Khám lâm sảng là cách tốt nhất để đánh giá tình trạng mất nước. Thang điểm lâm sảng 4 mục (Clinical Dehydration Scale) có thể được sử dụng để xác định mức độ mất nước dựa vào các triệu chứng thực thể. Ở những trẻ bệnh nhẹ, xét nghiệm phân thường quy không cần thiết khi chẩn đoán nhiều khả năng là viêm dạ dày ruột do virus. Viêm dạ dày ruột nhẹ có thể được điều trị tại nhà. Bù địch đường uống, như cho trẻ uống nước táo pha loãng một nửa sau đó là các loại nước ưa thích của trẻ, là phương pháp điều trị chính cho mất nước nhẹ và có hiệu quả tương đương với truyền tĩnh mạch trong việc phòng ngửa nhập viện và tái khám tại khoa cấp cứu. ORS được khuyến cáo trong mất nước mức độ trung bình. Có thể kê ondansetron nếu cần để ngăn tình trạng nôn và giúp trẻ dung nạp bù dịch đường uống tốt hơn. Nhập viện và truyền dịch tỉnh mạch được chỉ định cho trẻ không đáp ứng với bù dịch đường uống kết hợp thuốc chống nôn, cũng như những trẻ mất nước nặng (vd: có dấu hiệu sốc hoặc mất nước >10%). Rửa tay, bú mẹ và uống rota giúp giảm tỷ lệ mắc viêm dạ dày ruột cấp ở trẻ nhỏ.
Viêm dạ dày ruột cấp được định nghĩa là một bệnh tiêu chảy khởi phát nhanh, có thể có hoặc không kèm theo buồn nôn, nôn, sốt hoặc đau bụng. Bệnh đặc trưng bởi tăng số lần đi tiêu hoặc thay đổi tính chất phân, không liên quan đến các bệnh mạn tính. Trên toàn thế giới, 68% các bệnh tiêu chảy xảy ra ở trẻ nhỏ. Tiêu chảy là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ năm ở trẻ em, gây ra khoảng 2,5 triệu ca tử vong mỗi năm.
Bài tổng quan này tập trung vào viêm dạ dày ruột cấp ở trẻ em tại các quốc gia công nghiệp, nơi virus chiếm 75-90% nguyên nhân của viêm dạ dày ruột cấp do nhiễm trùng ở trẻ em. Khoảng 20% trường hợp là do vi khuẩn, còn tiêu chảy kéo dài 214 ngày thường do ký sinh trùng, nhưng chiếm <5% trường hợp viêm dạ dày ruột cấp. Các tác nhân gây bệnh cụ thể thay đổi theo mùa và khí hậu.
Đánh giá
Tiền sử bệnh
Khai thác bệnh sử cần bao gồm: thời điểm khởi phát và thời gian kéo dài của triệu chứng, hỏi về lượng dịch trẻ uống vào và lượng nước tiêu, cũng như các đầu hiệu cảnh báo (Bảng 1).
Do nôn và tiêu chảy không đặc hiệu cho viêm dạ dày ruột cấp, nên cần cân nhắc đến các chẩn đoán khác (Bảng 2).
Mặc dù co giật thường liên quan đến sốt cao, nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương hoặc rối loạn điện giải, nhưng cũng có thể do nhiễm rotavirus ở trẻ em.
Các khuyến cáo chính trong thực hành
- Liệu pháp bù dịch đường uống được khuyến cáo cho trẻ bị mất nước nhẹ đến trung bình trong viêm dạ dày ruột cấp. Phương pháp này hiệu quả tương đương truyền dịch tĩnh mạch trong việc ngăn ngừa nhập viện và tái khám tại khoa cấp cứu. (Khuyến cáo mức B)
- Trẻ bị mất nước nhẹ nên được cho uống nước táo pha loãng một nửa, sau đó là các loại nước uống trẻ ưa thích (nước trái cây thường, sữa). Cách tiếp cận này giúp giảm nhu cầu truyền dịch tĩnh mạch so với việc chỉ dùng dung dịch ORS. (Khuyến cáo mức B)
- Rửa tay bằng xà phòng là phương pháp hiệu quả trong việc phòng ngừa các đợt viêm dạ dày ruột. Tuy nhiên, rửa tay và vệ sinh đơn thuần không ngăn ngừa được nhiễm rotavirus. (Khuyến cáo mức A)
- Tất cả trẻ em nên được uống vắc-xin rota sống, giám độc lực để giảm tỷ lệ nhập viện, viêm dạ dày ruột nặng và tử vong do nhiễm rotavirus. (Khuyến cáo mức A)
- Nuôi con bằng sữa mẹ giúp giảm tỷ lệ mắc viêm dạ dày ruột cấp và nhập viện vì tiêu chảy ở trẻ nhỏ. (Khuyến cáo mức B)
Các điểm mới trong chủ đề này
Viêm dạ dày – ruột ở trẻ em
- Thang điểm mất nước lâm sàng (Clinical Dehydration Scale) đánh giá bốn đặc điểm lâm sàng để ước lượng mức độ mất nước và đặc biệt hữu ích trong việc xác định mất nước từ trung bình đến nặng. Thang điểm này đã được kiểm chứng trong nhiều bối cảnh, cả ở các khu vực có nguồn lực cao và thấp, và cho kết quả so sánh tốt với phương pháp đánh giá cân nặng trước và sau khi bù dịch – vốn được xem là tiêu chuẩn vàng để đánh giá tỉnh trạng mất nước.
- Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) hiện nay khuyến nghị bù nước bằng dung dịch oresol có độ thẩm thấu giảm. Có thể sử dụng ORS của WHO hoặc một dung dịch tự pha gồm ½ thìa cà phê muối và 6 thìa cà phê đường trong 1 lít nước.
BẢNG 1
Các dấu hiệu cảnh báo ở trẻ em bị viêm dạ dày – ruột cấp
|
BẢNG 2
Chẩn đoán phân biệt tiêu cháy hoặc nôn ở trẻ em
Triệu chứng | Chẩn đoán có thể gặp |
Rồi loạn tri giác | Nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương, nhiễm trùng huyết |
Nôn ra dịch mật | Tắc ruột |
Phân có máu hoặc nhầy (đặc biệt kéo dài > 2 tuần) | Bệnh ruột viêm (IBD) |
Khó thở | Viêm phổi |
Sốt | Các nhiễm trúng khác như viêm tai giữa, nhiễm | trùng đường tiết niệu có thể gây buồn nôn và nôn ở trẻ em |
Đau bụng khu trú, chướng bụng hoặc đề kháng thành bụng | Bụng ngoại khoa (vd: viêm ruột thừa) |
Cứng gáy hoặc thóp phồng | Viêm màng não |
Ban xuất huyết | Hội chứng sốc nhiễm độc (TSS) |
Gần đây có dùng kháng sinh (vd: ampicillin) | Tác dụng phụ của kháng sinh |
Tình trạng mất nước
Các dấu hiệu đỡ lo ngại bao gồm: ăn uống bình thường, lượng nước tiểu bình thường, và không nôn ói. Nếu có cả ba điều này, thì khả năng mất nước có ý nghĩa lâm sàng là rất thấp.
Tuy nhiên, khám lâm sàng vẫn là cách tốt nhất để đánh giá tình trạng mất nước. Thang điểm mắt nước lâm sàng (Clinical Dehydration Scale – Báng 3) đánh giá 4 đặc điểm lâm sàng để ước lượng mức độ mất nước, đặc biệt hữu ích trong việc phát hiện mất nước mức độ vừa đến nặng. Thang điểm này đã được kiểm chứng trong nhiều bối cảnh khác nhau, cả ở những nơi có điều kiện y tế đầy đủ lẫn hạn chế, và cho kết quả tương đương với phương pháp so sánh cân nặng trước và sau khi bù nước.
BẢNG 3
Thang điểm mất nước lâm sàng (Clinical Dehydration Scale)
Đặc điểm | 0 điểm | 1 điểm | 2 điểm |
Toàn trạng | Bình thường | Khát nước, bồn chồn hoặc lờ đờ, nhưng cáu gắt khi chạm vào | Ngủ gà, lạnh, và mô hôi, hôn mê |
Mắt | Bình thường | Hơi trũng | Rất trũng |
Niêm mạc | Ẩm | Dính (sticky) | Khô |
Nước mắt | Có nước mắt | Ít nước mắt | Không có nước mắt |
- 0 điểm – Mất nước <3%
- 1 – 4 điểm – Mất nước nhẹ (3% – 6%)
- 5 – 8 điểm – Mất nước vừa đến nặng (>6%)
Xét nghiệm cận lâm sàng
Chỉ số xét nghiệm duy nhất có giá trị trong việc xác định khả năng mất nước ≤ 5% là nồng độ bicarbonat huyết thanh > 15 mEq/L (15 mmol/L). Tuy nhiên, điện giải, creatinin và đường huyết cũng nên được chỉ định nếu nhiều khả năng cần bù dịch tĩnh mạch. Natri huyết thanh giúp xác nhận tỉnh trạng mất nước tăng natri máu, cần nghi ngờ khi bệnh nhi có biểu hiện: tăng trương lực cơ, tăng phản xạ, co giật, lơ mơ hoặc hôn mê.
Ở trẻ em bị bệnh nhẹ, xét nghiệm phân thường không cần thiết khi chẩn đoán nhiều khả năng là viêm dạ dày – ruột do virus. Tuy nhiên, xét nghiệm phân cần được thực hiện ở bệnh nhân nghi nhiễm trùng huyết, có máu hoặc nhầy trong phân, hoặc suy giảm miễn dịch. Trong những trường hợp này, cây phân là xét nghiệm chuẩn để xác định tác nhân gây bệnh trong viêm dạ dày – ruột do vi khuẩn (các xét nghiệm kháng nguyên và/hoặc khuếch đại acid nucleic được dùng để phát hiện Clostridium difficile và Campylobacter). Hiện nay, xét nghiệm PCR ngày càng được sử dụng để xác định nguyên nhân virus gây viêm dạ dày – ruột ở trẻ em nhập viện, vì việc xác định căn nguyên virus giúp tránh lạm dụng kháng sinh không cần thiết.
Chỉ định bổ sung cho xét nghiệm phân gồm có: Viêm dạ dày – ruột sau khi đi du lịch nước ngoài (xét nghiệm tỉm trứng và ký sinh trùng); Tiêu cháy không cải thiện sau 7 ngày (bạch cầu trong phân có thể gợi ý nguyên nhân viêm); Triệu chứng xảy ra trong bối cảnh dịch viêm dạ dày – ruột trong cộng đồng.
Điều trị
Nguyên tắc chung
Mục tiêu của điều trị viêm dạ dày – ruột cấp bao gồm phòng ngừa mất nước, xử trí mất nước, và giảm thời gian cũng như mức độ nặng của triệu chứng. Có nhiều hưởng dẫn điều trị viêm dạ dày – ruột cấp, phần lớn dựa trên đồng thuận chuyên gia. Các khuyến cáo có sự khác biệt giữa các hướng dẫn, đặc biệt liên quan đến liều lượng dung dịch ORS.
Tuy nhiên, các hướng dẫn đều thống nhất rằng trẻ bị mất nước cần được bù dịch, lượng dịch mất tiếp tục phải được thay thế, việc bú mẹ cần được duy trì trong suốt quá trình bù dịch, và sau khi bù dịch ban đầu nên cho trẻ ăn chế độ dinh dưỡng phù hợp lứa tuổi (không cần tránh các sản phẩm từ sữa). Nhập viện được chỉ định trong trường hợp mất nước nặng, có vấn đề xã hội (ví dụ: lo ngại về khả năng người chăm sóc thực hiện đúng liệu pháp bù dịch hoặc nhận biết các triệu chứng cần tải khám), bù dịch thất bại, hoặc nghi ngờ chẩn đoán khác nghiêm trọng. Các hướng dẫn dựa trên bằng chứng đều thống nhất rằng thuốc chống tiêu chảy không nên được sử dụng, nhưng một số hướng dẫn khuyến nghị có thể dùng thuốc chống nôn ondansetron để cải thiện tỷ lệ thành công của bù dịch đường uống. Bằng chứng gần đây cho thấy các công cụ phác đồ lâm sàng cũng giúp tăng cường việc sử dụng bù dịch đường uống, giảm nhu cầu truyền dịch tĩnh mạch, và rút ngắn thời gian nằm tại khoa cấp cứu.
BẢNG 4
Hướng dẫn của WHO về sử dụng ORS ở trẻ em
Cân nặng* | Tuổi* | Lượng ORS (mL) cần uống trong 4 giờ đầu |
< 5 kg | < 4 tháng | 200 – 400 |
5 – 7.9 kg | 4 – 11 tháng | 200 – 400 |
8 – 10.9 kg | 12 – 23 tháng | 600 – 800 |
11 – 15.9 kg | 2 – 4 tuổi | 800 – 1200 |
16 – 29.9 kg | 5 – 14 tuổi | 1200 – 2200 |
≥ 30 kg | ≥ 15 tuổi | 2200 – 4000 |
- Nếu bệnh nhi muốn uống nhiều ORS hơn so với bảng trên, có thể cho uống thêm.
- Khuyến khích mẹ đang cho con bú tiếp tục cho bú mẹ.
- Với trẻ < 6 tháng không bú mẹ: nếu dùng ORS công thức cũ của WHO (90 mEq natri/L), cần pha thêm 100 – 200 ml. nước sạch. Nếu dùng ORS công thức mới với độ thẩm thấu giám (75 mEq natri/L), thì không cần pha thêm.
*Chỉ sử dụng tuổi nếu không biết cân nặng.
Lượng ORS (m.) cũng có thể tỉnh bằng công thức: Cân nặng (kg) x 75.
Mất nước nhẹ (56%)
Mất nước nhẹ do viêm dạ dày – ruột cấp có thể được điều trị tại nhà, với liệu pháp bù dịch đường uống là điều trị chủ yếu. Một phân tích gộp cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ nhập viện hoặc tái khám tại khoa cấp cứu giữa nhóm bù địch đường uống và nhóm truyền dịch tỉnh mạch, và chỉ có 1 trong 25 trẻ được điều trị bằng ORS cuối cùng cần phải truyền dịch tỉnh mạch.
Thành phần điện giải cụ thể của dung dịch ORS không quá quan trọng trong trường hợp mất nước nhẹ. Ví dụ, một nghiên cứu ở trẻ trên sáu tháng tuổi cho thấy việc dùng nước táo pha loãng (nửa nồng độ) sau đó cho uống các loại thức uống ưa thích (như nước trái cây thông thường, sữa) giúp giảm nhu cầu truyền dịch tĩnh mạch về sau so với ORS chuẩn, chủ yếu vì trẻ dễ dàng uống các loại thức uống này hơn so với ORS. Sau mỗi lần đi tiêu lòng, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyển nghị cho trẻ dưới hai tuổi uống 50 đến 100 ml. dịch, trẻ từ hai đến 10 tuổi uống 100 đến 200 mL, và trẻ lớn hơn có thể uống theo nhu cầu. Trẻ em có thể tiêu thụ đến 20 ml. dịch trên mỗi kg cân nặng mỗi giờ.
Mất nước vừa đến nặng (>6%)
Điều trị mất nước mức độ vứa bao gồm ORS kết hợp với thuốc nếu cần thiết để giảm nón và cải thiện khả năng dung nạp ORS. Ở trẻ em bị mất nước vừa, bù dịch đường uống hiệu quả tương đương với bù dịch tĩnh mạch trong việc ngăn ngừa nhập viện và tái khám.
ORS. Trong một thay đổi gần đây, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) hiện khuyến nghị sử dụng ORS có độ thẩm thấu giảm, với thành phần gồm 75 mEq natri/L và 75 mmol glucose/L. hòa tan trong 1 lít nước. Trước đây, công thức ORS chuẩn của WHO chứa 90 mEq natri/L. Nếu sử dụng công thức cũ này cho trẻ dưới sáu tháng tuổi, cần pha thêm 100 – 200 mL nước sạch. Ngoài ra, có thể sửdụng dung dịch tự pha gồm ½ thìa cà phê muối và 6 thìa cà phê đường trong 1 lít nước. Bảng 4 trình bày hướng dẫn của WHO về việc sử dụng ORS ở trẻ em.
Người chăm sóc nên được hướng dẫn cách cho trẻ uống ORS bằng xi lanh đối với trẻ sơ sinh, và bằng thìa hoặc cốc đối với trẻ nhũ nhỉ lớn hơn và trẻ nhỏ. Trẻ dưới hai tuổi nên được cho uống 1 thìa cà phê mỗi 1-2 phút, trẻ lớn hơn nên được khuyến khích uống từng ngụm nhỏ thường xuyên trực tiếp từ cốc. Nếu xảy ra nôn ói, khuyến cáo là ngừng 5-10 phút, sau đó tiếp tục cho uống ORS chậm hơn, mỗi 2-3 phút một lần.
Thuốc chống nôn. Ondansetron thường được sử dụng khi cần thiết để ngăn ngừa nôn trong lúc trẻ uống ORS. Trong một bài tổng quan Cochrane, trẻ được dùng thuốc chống nôn ít có khả năng phải truyền dịch tĩnh mạch hơn (RR – 0,40; KTC 95%, 0,26-0,60). Một bài tổng quan hệ thống khác cho thấy ondansetron giúp giảm số ca nhập viện (NNT – 14; KTC 95%, 9-44), giảm nhu cầu truyền dịch tĩnh mạch (NNT – 5; KTC 95%, 4 – 8), và giảm nón tái diễn (NNT-5; KTC 95%, 4 – 7), nhưng lại làm tăng nguy cơ tiêu cháy.
Liều thông thường của ondansetron là 2 mg cho trẻ nặng 8 – 15 kg. 4 mg cho trẻ nặng 15 – 30 kg và 8 mg cho trẻ nặng > 30 kg. Liều có thể được lập lại nếu trẻ nôn trong vòng 15 phút sau khi uống thuốc. Ondansetron không nên dùng cho bệnh nhân có hội chứng QT dài bẩm sinh. Ngoài ra, luôn kiểm tra điện giải trước khi dùng thuốc vì hạ magnesi máu và hạ kali máu làm tăng nguy cơ kéo dài khoảng QT. Các thuốc chống nôn thể hệ cũ như promethazine và metoclopramide có tỷ lệ tác dụng phụ cao hơn và nhìn chung không được khuyến cáo sử dụng.
Bù dịch tĩnh mạch. Những bệnh nhân không đáp ứng với liệu pháp bù địch đường uống kết hợp thuốc chống nôn, cũng như những bệnh nhân mất nước nặng (ví dụ: có dấu hiệu sốc hoặc mất nước > 10%) cần được nhập viện và bù địch tỉnh mạch. Bảng 5 trình bày hướng dẫn của WHO về bù dịch tĩnh mạch trong mất nước nặng. Đối với trẻ vẫn có khả năng uống, nên cho uống ORS bằng xi lanh, thìa hoặc cốc cho đến khi thiết lập được đường truyền tĩnh mạch. Trong các cơ sở hạn chế nguồn lực, có thể xem xét bù địch qua sonde dạ dày nếu không thể đặt đường truyền tĩnh mạch.
Lactobacillus đã được nghiên cứu như một phương pháp điều trị cho bệnh nhân nhập viện được bù địch đường uống, nhưng lợi ích của nó vẫn chưa rõ ràng. Một phân tích gộp cho thấy Lactobacillus chỉ làm giảm rất ít thời gian bệnh và số lần đi tiêu. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị bổ sung kẽm trong đợt tiêu chảy cấp, dựa trên các nghiên cứu chủ yếu được thực hiện ở những quốc gia mà trẻ em có nguy cơ thiếu kêm. Tuy nhiên, một bài tổng quan Cochrane nhận thấy chưa có đủ dữ liệu để xác định liệu việc bổ sung kẽm có cải thiện kết quả lâm sảng hay không.
BẢNG 5
Hướng dẫn của WHO về bù dịch tĩnh mạch (IV) cho trẻ em
Bắt đầu truyền dịch tĩnh mạch ngay, nếu bệnh nhi còn uống được, cho uống ORS cho đến khi thiết lập được đường truyền. Truyền 100 mL/kg dung dịch Ringer*, chia như sau:
*- Nếu không có dung dịch Ringer, có thể dùng NaCl 0,9%. †- Có thể lặp lại một lần nếu mạch quay còn rất yếu hoặc không bắt được. |
Phòng ngừa
Rửa tay
Rửa tay được khuyến cáo là biện pháp chính để phòng ngừa viêm dạ dày – ruột. Một phân tích gộp từ 30 nghiên cứu cho thấy các chiến dịch rửa tay giúp giảm 30% tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm trùng đường tiêu hóa. Một bài tổng quan Cochrane cũng ghi nhận kết quả tương tự. Không có bằng chứng cho thấy xà phòng diệt khuẩn hiệu quả hơn xà phòng thường. Việc sử dụng dung dịch sát khuẩn tay có cồn kết hợp với vệ sinh tay chuẩn có thể giảm tỷ lệ viêm dạ dày – ruột tại văn phòng, nhà trẻ và giảm 30% tình trạng nghỉ học. Tuy nhiên, chỉ riêng việc rửa tay và vệ sinh không đủ để ngăn ngừa nhiễm rotavirus.

Vaccine
Trước khi có vaccine phòng rotavirus, gần như tất cả trẻ em trên toàn thế giới đều nhiễm rotavirus trước 3 đến 5 tuổi. Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm rotavirus đã giảm đáng kể nhờ việc sử dụng vaccine. Các nghiên cứu tại Mexico và Brazil cho thấy vaccine giúp ngăn ngừa 80.000 ca nhập viện và 1.300 ca tử vong do tiêu cháy mỗi năm.
Các loại vaccine rotavirus trước đây có liên quan đến tăng nguy cơ lồng ruột (khoảng 1/10.000 trẻ sơ sinh). Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy với các loại vaccine mới hơn, nguy cơ này chỉ tăng nhẹ, vào khoảng 1/51.000 đến 1/68.000 trẻ sơ sinh.
Tất cả trẻ nên được uống vaccine rotavirus, có thể bắt đầu từ 6 đến 15 tuần tuổi, nhằm giảm nguy cơ viêm dạ dày – ruột nặng, nhập viện và tử vong do nhiễm rotavirus. Hai loại vaccine rotavirus được chấp thuận sử dụng tại Hoa Kỳ là Rotateq (khuyến cáo uống lúc 2, 4 và 6 tháng tuổi) và Rotarix (khuyến cáo uống lúc 2 và 4 tháng tuổi). Khoảng cách tối thiểu giữa các liều là 4 tuần, và tất cả các liều nên được uống trước 8 tháng tuổi. Trẻ sinh non cũng cần được uống vaccine theo lịch thông thường.
Hiện nay, vaccine phòng norovirus đang trong quá trình thử nghiệm lâm sàng. Các nghiên cứu đã cho thấy vaccine này tạo ra đáp ứng miễn dịch mạnh mẽ và có tính dung nạp tốt ở cả người lớn và trẻ em.
Các phương pháp phòng ngừa khác
Việc nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 4 tháng đầu, và nuôi con bằng sữa mẹ một phần sau đó, có liên quan đến giảm tỷ lệ mắc viêm dạ dày – ruột cấp trong năm đầu đời, cũng như tỷ lệ nhập viện do bệnh tiêu chảy. Một nghiên cứu đoàn hệ ước tính rằng 53% các ca nhập viện do tiêu chảy có thể được ngăn ngừa mỗi tháng nhờ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ, và hiệu quả bảo vệ này vẫn được duy trì ngay cả sau khi ngừng cho bú.
Rất nhiều nghiên cứu đã tập trung vào các đặc tính miễn dịch của sữa mẹ. Các kháng thể trong sửa mẹ chỉ đóng góp một phần nhỏ vào khả năng bảo vệ miễn dịch của trẻ, trong khi hệ vi sinh đường ruột, prebiotics, probiotics, miễn dịch niêm mạc, nucleotide và oligosaccharide lại có vai trò lớn hơn. Yếu tố tăng trưởng biểu bì trong sữa mẹ giúp kích thích sự trưởng thành của biểu mô ruột; IgA và oligosaccharide có tác dụng ngăn chặn sự bám dính của mầm bệnh; và lactoferrin trong sữa mẹ có đặc tính kháng khuẩn.
Một số bằng chứng cho thấy rằng việc bổ sung probiotic hàng ngày cho trẻ em đi nhà trẻ giúp giảm tỷ lệ mắc tiêu cháy nhiễm trùng cấp mà không gây ra tác dụng phụ. Ví dụ, một nghiên cứu cho thấy trẻ em tại các nhà trẻ được bổ sung Lactobacillus reuteri giúp giảm chi phí y tế và giảm số đợt tiêu chảy. Tuy nhiên, bằng chứng vẫn còn không đồng nhất trong hầu hết các nghiên cứu về việc bổ sung probiotic vào các bữa ăn có nguồn gốc từ sửa tại nhà trẻ.
Cần có thêm nhiều nghiên cứu để xác định chúng loại và liều lượng probiotic nào là hữu ích nhất. Các bác sĩ gia đình có thể cân nhắc trao đổi với cha mẹ về lợi ích tiềm năng của probiotic trong phòng ngừa viêm dạ dày – ruột nhiễm trùng ở trẻ em.