Suy sinh dục ảnh hưởng như thế nào đến chức năng tình dục nam?

Suy sinh dục và chức năng tình dục nam

Rối loạn chức năng tình đục ở nam giới có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó suy sinh duc là một nguyên nhân ít gặp với tỷ lệ trung bình trong quần thể nam giới ở độ tuổi sinh sản là từ 3- 3%. Hội chứng suy sinh dục hay còn gọi là sự suy giảm testosterone là một bệnh lý cần thiết được phát hiện và chẩn đoán trên nhóm bệnh nhân nam giới mắc rối loạn chức năng tình dục, dễ có hướng tiếp cận và can thiệp hợp lý.

Tải bản PDF TẠI ĐÂY  

Nguồn: Sách Đại cương sức khỏe tình dục – Chương 3: Rối loạn chức năng tình dục nam

Suy sinh dục và chức năng tình dục nam

Nhà xuất bản Y học

Chủ biên: PGS.TS.BS. Lê Minh Tâm

Biên soạn

PGS.TS.BS. Tôn Nữ Vân Anh

ThS.BS. Hồ Trần Tuấn Hùng

ThS.BS. Nguyễn Đắc Nguyên

ThS.BS. Trần Thị Như Quỳnh

GIỚI THIỆU

Sinh lý

Hình 16.1. Hoạt động sinh lý trục dưới đồi - tuyến yên - tuyến sinh dục
Hình 16.1. Hoạt động sinh lý trục dưới đồi – tuyến yên – tuyến sinh dục

Tuyến yên điều chỉnh hoạt động của tinh hoàn thông qua việc tiết hormone LH, hormone này điều chỉnh quá trình sản xuất testosterone trong tế bào Leydig; và hormone FSH, chủ yếu kiểm soát quá trình sản xuất tỉnh trùng trong ống sinh tinh. Việc sản xuất và bài tiết gonadotropin được kích thích bởi hormone giải phóng gonadotropin vùng dưới đồi và bị ức chế bởi phản hói ức chế qua trung gian là hoạt động trung tâm của steroid sinh dục và inhibin B (Hình 16.1).Hormone gonadotropin được giải phóng theo xung cứ sau 60-90 phút kích thích giải phóng theo nhịp LH và FSH vào máu. Gonadotropin được kiểm soát bởi hoạt động của các tế bào thần kinh vùng dưới đồi, bao gồm cả hormone giải phóng corticotropin (CRF) và tế bào thần kinh B endorphin. LH kích thích tế bào Leydig sản xuất testosterone, FSH kết hợp với testosterone trong tinh hoàn tác động lên tế bào Sertoli và Ống sinh tỉnh để kích thích sinh tinh. Tỉnh hoàn sản xuất 3-10 mg testosterone mỗi ngày, gin tương ứng với nồng độ 10,4-34,7 nmol/L trong huyết thanh đạt định điểm vào buổi sáng. Testosterone tác động trực tiếp thông qua các thụ thể androgen và thông qua quá trình chuyển đổi thành hai chất chuyển hóa có hoạt tính, dihydrotestosterone nhờ enzyme 5-a reductase hoặc oestradiol nhờ enzyme protease. Testosterone và oestrogen phản hồi tiêu cực đến vùng dưới đồi và tuyến yên dé ức chế tiết gonadotropin. Tế bào thần kinh Kisspeptin-1 (Kiss-1), neurokinin-B và tachykinin-3 có liên quan đến kích thích GnRH. Leptin có liên quan đến việc kích hoạt tín hiệu Kiss-1. Khoảng 25 mg testosterone có trong tinh hoàn bình thường và trung bình 5-10 mg testosterone được tiết ra hàng ngày.

Bất kỳ các rối loạn nào trong hoạt động sinh lý kể trên có thể dẫn đến tình trạng sụt giảm nồng độ testosterone, từ đó gây nên những hậu quả nghiêm trọng về chức năng sinh lý tình dục ở nam giới.

Phân loại

Một số nguyên nhân dẫn đến thiểu năng sinh dục và được phân loại thành các nhóm chính sau:

  • Suy sinh dục nguyên phát là do các nguyên nhân tại tỉnh hoàn khác nhau: bệnh lý nhiễm sắc thể (hội chứng Klinefelter là bệnh lý thường gặp nhất). Hội chứng Klinefelter là nguyên nhân di truyền phố biến nhất của thiếu năng sinh dục và xảy ra với tỷ lệ 1/600 ca sinh sống. Các biểu hiện lâm sàng khác nhau và là hậu quả của việc thừa một nhiễm sắc thể X do không phân tách nhiễm sắc thể giới tính trong quá trình giảm phân. Kiểu gen phổ biến nhất là 47, XXY, nhưng thể khảm 46, XY/47, XXY thường thấy.

Bệnh nhân có tinh hoàn nhỏ và cứng và thường vô sinh do tổn thương ống sinh tinh. Nồng độ testosterone trong huyết thanh rất thấp, nhưng một số bệnh nhân có thể có nồng độ ở mức thấp hơn mức bình thường và có kiểu hình nam giới bình thường. Một số nam giới mắc thể khảm có kích thước tinh hoàn và khả năng sinh tinh bình thường ở tuổi dậy thì, nhưng các tế bào máu bị mit din theo thời gian. Ngoài ra, các khối u tại tinh hoàn với sự thiếu hụt testosterone sau khi điều trị hoá xạ trị là một nguyên nhân khác có thể gây suy sinh dục. Viêm tinh hoàn, teo tinh hoàn vô căn, thiểu sản ống dẫn tinh bẩm sinh, rối loạn phát triển giới tính bộ NST 46 XY, hội chứng rối loạn di truyền tuyến sinh dục, hội chứng Noonan hoặc đột biến thụ thể LH là những nguyên nhân hiếm gặp hơn.

Một số trường hợp xảy ra tình trạng chấn thương tinh hoàn và xoắn tinh hoàn. Sự giảm tưới máu cấp tính có thế gây huỷ hoại chức năng của các ống sinh tinh. Ngoài ra, mặc dù là một nguyên nhân quan trọng của suy sinh duc thứ phát, glucocorticoid ở liều siêu sinh lý đôi khi gây ra suy sinh dục nguyên phát đảo ngược. Ketoconazole cũng có thể ức chế trực tiếp và đảo ngược quá trình tạo steroid ở tỉnh hoàn. 

Một số bằng chứng cho thấy giãn tĩnh mạch thừng tinh ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình sinh tỉnh và sản xuất testosterone. Những cải thiện về nồng độ testosterone và khả năng sinh sản đã được báo cáo sau khi cắt bỏ tĩnh mạch thừng tinh.

  •  Suy sinh dục thứ phát là do các nguyên nhân trung ương ở vùng dưới đồi hoặc tuyến yên:

tăng prolactin máu do khối u hoặc cơ năng, hội chứng Kallmann, thiếu hụt LH đơn độc, u tuyến yên, viêm tuyến yên tự miễn, suy tuyến yên do điều trị (phẫu thuật, xạ trị), khối u thần kinh trung ương, hội chứng Prader-Willi tăng sản thượng thận bẩm sinh.

Tăng prolactin máu din đến suy sinh dục thứ phát thông qua ức chế tổng hợp và bài tiết GnRH. Trừ khi tuyến sinh dục bị tổn thương do hiệu ứng ức chế từ u tuyến yên, trực tuyến sinh dục thường phục hồi sau khi bình thường hóa nồng độ prolactin. Thuốc chủ vận dopamine được sử dụng dé điều trị u tiết prolactin và chứng tăng prolactin máu vô căn.

Glucocorticoid ở liều siêu sinh lý din đến thiếu hụt androgen do ức chế tổng hợp Lobe

Prednisone với liều hàng ngày từ 15 mg trở lén có thể ức chế nồng độ testosterone trong huyết thanh trong vòng 3 ngày, với mức độ ức chế liên quan trực tiếp đến liều glucocorticoid. Thuốc giảm đau opioid cũng ức chế tổng hợp GnRH và nóng dé testosterone, doi khi làm giảm nóng độ ay trong 59

thé. Các tác nhân là chất chủ vận của thu thé u-opioid (ví du: methadone và morphine) có khả năng ức chế trục dưới đồi – sinh dục. Những tác dụng như vậy hiếm khi xảy ra với các loại thuốc chà bông thụ thể mu-opioid và chất đối kháng của thụ thế x-opioid (ví dụ, buprenorphine). Các in cứu không kiểm soát vé liệu pháp thay thế testosterone đã cho thấy chất lượng cuộc sống được cải thiện ở nam giới bị suy giảm nội tiết tố gây ra bởi sử dụng opioid.

Hình 16.2. Hình ảnh suy sinh dục nguyên phát và suy sinh dục thứ phát
Hình 16.2. Hình ảnh suy sinh dục nguyên phát và suy sinh dục thứ phát
  • Suy tuyến sinh dục và vùng dưới đói (khởi phát muộn): suy sinh dục khởi phát muộn do lão hóa hoặc thừa cin hoặc cả hai là một cơ chế điển hình được thay trong suy sinh dục khởi phát muộn.

Sự tiết hormone giải phóng gonadotropin theo cung chế tiết của vùng dưới đói bị giảm sút, do tăng độ nhạy cảm của vùng dưới đói đối với tác dụng ức chế từ các androgen ngoại vi. Tại tĩnh hoàn, thể tích tinh hoàn cũng như khói lượng tế bào Leydig và chức năng dự trữ bị giảm sút. Có sự giảm bài tiết testosterone đi kèm với ngừng tiết hoàn toàn vào ban đêm. Các rối loạn kết hợp này là nguyên nhân làm giảm dần mức testosterone với tỷ lệ trung bình là 1-2% mỏi nam. Nam giới mắc bệnh mãn tính, béo phì và hội chứng chuyển hóa cũng được xác định tỷ lệ thiếu hụt testosterone cao với thay đổi từ 25% đến 50%. 20% nam giới trên 60 tuổi có mức testosterone sụt giảm một cách đáng kể.

  •  Không nhạy cảm/kháng thụ thể androgen là một dạng thiếu năng sinh dục rất hiếm gặp, do không nhạy cảm hoàn toàn hoặc một phần với thụ thể androgen hoặc thiếu hụt S-alpha reductase.

Dịch tế học

Tỷ lệ mắc và tỷ lệ suy sinh dục nam trong dân số nói chung vin chưa được biết, mặc dù ước tính sơ bộ tỷ lệ này da có sẵn từ các nghiên cứu dịch tễ học. Các nghiên cứu về dân số được thực hiện cho đến nay có một số hạn chế: dân số được nghiên cứu chủ yếu là nam giới trung niên trở lên; nhiều định nghĩa khác nhau về thiểu năng sinh dục đã được sử dụng; và xét nghiệm testosterone tiêu chuẩn chưa được sử dụng. Mặc dù các triệu chứng như rối loạn chức năng tình dục, giảm sức sống và giảm chức năng thể chất có liên quan đến nồng độ testosterone thấp trong huyết thanh, nhưng nhiều nam giới không có triệu chứng và một số nam giới có triệu chứng lại có nồng độ testosterone bình thường. Tỷ lệ thỏ thiếu hụt androgen ở Hoa Kỳ là khoảng 6%. Một cuộc khảo sát tại phòng khám ngoại trú cho thấy tỷ lệ hiện mắc là 38.7% trên cơ sở nòng độ testosterone tháp hơn 10,4 nmol/L (nhưng không có triệu chứng). Khoảng 500.000 nam giới ở Hoa Kỳ được chin doin là thiếu hụt nội tiết tố nam và tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở những người mắc các bệnh kèm theo cụ thế, chẳng hạn như béo phì, đái tháo đường và HIV.

CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG

Biểu hiện lâm sàng

Đối với bất kể loại suy sinh dục nào, bệnh cảnh lâm sàng thường phụ thuộc vào thời điểm bắt đầu suy sinh dục:

  • Sự Thiếu hụt testosterone trước khi sinh sẽ làm thay đổi sự phát triển của bộ phận sinh dục gây ra tất cả những thay đổi có thể xảy ra đối với các khía cạnh và sự hình thành bộ phận sinh dục ngoài: như lỗ tiểu thấp, tật tinh hoàn không xuống, và bộ phận sinh dục ngoài hình thái của phụ nữ. Những thay đổi về mặt giải phẫu này sẽ làm suy giảm chức năng sinh dục trong tương lai. Những rối loạn này không thứ tự phục hồi và cách điều trị phẫu thuật để điều chỉnh. Quy tắc phẫu thuật chung là tiến hành điều trị phẫu thuật càng sớm càng tốt và xác định lựa chọn giới tính, điều này sẽ dễ đạt được hơn khi tiến hành phẫu thuật điều trị tái tạo ở thời điểm sớm. Mục tiêu là hoàn thành việc chỉnh sửa phiu thuật cho đến khi 2 tuổi. Điều quan trọng là phải đánh giá khả năng hiện diện của các tuyến sinh dục không hoạt động/loạn hệ gen, dé phát hiện sớm khả năng ác tính và đưa ra lựa chọn điều trị phù hợp. Các ván dé chính trong nhiều trường hợp là không được nhận biết và chọn đoán từ khi mới sinh, và rất khó điều trị sau 2 tuổi do các nguyên nhân thực thể khác và do bản dạng giới, vai trò giới và xu hướng tính dục đã được thiết lập. Điều trị thay thế testosterone là bit buộc, sau thời điểm khởi phát sinh lý
  •  Trường hợp thiếu hụt testosterone trước tuổi dậy thì, sẽ luôn quan sát thấy hiện tượng dậy thì muộn, được định nghĩa ở trẻ trai là không có đặc điểm sinh dục thứ cấp (tăng kích thước tinh hoàn ) trước 14 tuổi. Hình ảnh lâm sàng điển hình: tính hoàn nhỏ, tình hoàn lạc chỗ, bộ phận sinh dục ngoài giống nữ giới, giọng nói the thé, cơ thế và lỏng mặt thưa thớt, giảm khối lượng xương và cơ. Từ đặc điểm tình dục, những cậu bé này không thể hiện hứng thú tình dục, giảm xu hướng tự kích thích và giảm ảo tưởng, mỏng tỉnh. Suy sinh dục không được điều trị sẽ ảnh hưởng nặng né đến hoạt động tình dục của nam giới sau này, ngoài ra còn gây ra loạn về chất lượng tinh trùng của bệnh nhân. Trong trường hợp không có sự bổ sung androgen bình thường, sẽ không có khả năng cương dương, thay đổi hành vi tình dục, chức năng tình dục bị ảnh hưởng một cách toàn điện. Nếu không được điều trị triệt để, sẽ không có sự phát triển bình thường về kiểu hình nam giới trưởng thành, kèm theo đời sống tình dục bị suy giảm nghiêm trọng.
  • Thiếu hụt testosterone ở người trưởng thành sẽ gây ra các triệu chứng khác so với các dạng suy sinh dục da dẻ cập trước đó. Các bệnh nhân có bộ phận sinh dục phát triển bình thường, các đặc tính sinh dục phụ phát triển bình thường, chức năng và hành vi tình dục bình thường cho đến khi bắt đầu suy sinh dục. Bức tranh lâm sàng thường thấy các triệu chứng của rối loạn chuyển hóa và rối loạn tình dục. Các triệu chứng tình duc bao gom mất ham muốn tình dục, rối loạn cương dương, giảm ham muốn tình dục, rụng lông trên cơ thể và bốc hỏa Các biến chứng chuyển hóa là mát khối lượng xương, thiếu cơ, tăng cân, tăng mỡ cơ thế và tăng nguy cơ bệnh lý mạch máu.

Tóm lại, kiểu hình của bệnh nhân thiếu năng sinh dục xuất hiện độc lập với nguyên nhân gây ra vấn đề, nhưng thường bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi tôi bắt đầu suy sinh dục. Khi sự thiếu hụt androgen hoàn toàn và phát triển trong thời kỳ bào thai, các triệu chứng có thế rit nghiêm trọng, trải dài từ kiếu hình nữ gắn như hoàn toàn (khong nhạy cảm hoàn toàn với androgen hoặc khiếm khuyết enzyme ngăn chặn quá trình tổng hợp androgen) đến các khiếm khuyết khác nhau trong quá trình nam hóa và cơ quan sinh dục không rõ ràng (đương vit nhỏ, 16 tiéu tháp và tinh hoàn án). Khi suy sinh dục xảy ra ở tuổi trưởng thành, đặc biệt là suy sinh dục chức năng, các triệu chứng thường nhẹ, khó nhận biết và thường bị nhầm lẫn với quá trình lão hóa hoặc với bệnh mạn tính đi kèm. Một số đặc điểm lâm sàng không đặc hiệu, chẳng hạn như mệt mỏi, suy nhược và giảm năng lượng, cũng như suy giảm khả năng tình duc có thế là các biểu hiện lâm sàng. Các nghiên cứu cho thấy bộ ba triệu chứng tình dục, bao gồm ham muốn tình dục tháp, giảm khả năng cương cứng tự phát và rối loạn cương, thường liên quan đến việc giảm nồng độ testosterone trong huyết thanh.

.Chẩn đoán

Cơ sở chính của chin đoán bao gồm các dấu hiệu và triệu chứng phù hợp với suy sinh duc, cùng với bằng chứng sinh hóa về nồng độ testosterone toàn phần trong huyết thanh thấp vào buổi sáng trong hai lần trở lên, được do bằng xét nghiệm đáng tin cậy. Lượng testosterone có khả năng bị ảnh hưởng bởi lượng thức ăn ăn vào; do đó, testosterone toàn phần trong huyết thanh nén được do trong điều kiện lúc đói và vào buổi sáng (tir 07:00 đến 11:00 giờ). Luôn luôn phải thực hiện phép đo xác nhận trong trường hợp có giá trị bệnh lý và chắc chắn là trước khi bắt đầu bắt kỳ liệu pháp testosterone nào. Ngưỡng tham khảo chấn đoán là đưới 8 nmol/L.

Việc xác định LH phải được thực hiện cùng với prolactin (PRL) khi phát hiện nồng độ testosterone toàn phần bệnh lý, dé xác định chính xác các tình trạng cơ bản và loại trừ các nguyên nhân có thế xảy ra.

Do ảnh hưởng tiêu cực của prolactin đối với ham muốn tình dục, PRL cũng có thể được coi là sàng lọc đầu tay ở những bệnh nhân bị giảm ham muốn tình dục.

Ngoài ra, chụp cộng hưởng từ tuyến yên (MRI), cũng như các đánh giá hormon tuyến yên khác, là cần thiết khi có các triệu chứng cụ thế như rối loạn thị giác, đau đầu hoặc khi xác nhận tăng prolactin máu

Sơ đồ 16.1. Các bước thăm dò đầu tay nhằm chẩn đoán suy sinh dục
Sơ đồ 16.1. Các bước thăm dò đầu tay nhằm chẩn đoán suy sinh dục

 

  • Khai thác tiền sử, triệu chứng lâm sàng: các triệu chứng cụ thể liên quan đến suy sinh dục được trình bày trong bảng 16.1. Tiền sử can thiệp phẫu thuật đối với tinh hoàn án hoặc 16 tiểu lệch phải được khai thác. Tương tự như vậy, các bệnh đi kèm mạn tính và toàn thân phải được thăm khám toàn diện ở mọi bệnh nhân. Nên loại trừ việc sử dụng các loại thuốc có khả năng can thiệp vào hoạt động trục dưới đồi-tuyến yên-tuyến sinh dục. Các bệnh cấp tính din đến suy sinh dục chức năng cần được làm rõ ở bệnh nhân có dấu hiệu.
  • Phừng mặt

Một số bảng câu hỏi tự đánh giá hoặc một số mô hình các cuộc phóng viên đã được phát triển để sàng lọc suy sinh dục. Mặc dù các công cụ khai thác bệnh sử này đã chứng minh tính hữu ích lâm sàng trong việc hd trợ trán đoán của suy sinh dục hoặc trong việc đánh giá kết quả điều tri bing testosterone, tín hiệu của chúng vin còn kém và không nên được sử dụng dé sàng lọc có hệ thống những người đàn ông bị suy sinh dục.

  • Khai thác các dấu hiệu thể chất: vì béo phì thường liên quan đến thiểu năng sinh dục (hầu hết là chức năng), nên việc xác định chỉ số khối cơ thể (BMI) và do chu vi vòng eo được khuyến nghị thực hiện ở tất cả các cá nhân. Kích thước tinh hoàn và dương vật, cũng như sự hiện diện của các đặc điểm sinh dục phụ có thế cung cấp thông tin hữu ích về tình trạng nội tiết tố nam tống thế. Ngoài ra, tỷ lệ phân khúc trên/phân khúc dưới cờ thế (> 0,92) và tỷ lệ sii tay trên chiều cao (< 1,0) có thể hữu ích dé xác định hình dạng cơ thể đặc biệt ở những đối tượng bị thiểu năng sinh dục trước tuổi dậy thì hoặc dậy thì muộn.
  • Các bằng chứng khuyến cáo
  • Các triệu chứng tình dục là các triệu chứng cụ thể nhất liên quan đến suy sinh dục.
  • Chin đoán suy sinh dục nên dựa trên các dấu hiệu và triệu chứng cụ thể của tình trạng thiếu hụt androgen, cùng với nồng độ testosterone huyết thanh thấp liên tục.
  • Chẩn đoán suy sinh dục chức năng là chán đoán loại trừ, sau khi loại trừ các nguyên nhân thực thế của suy sinh dục.
  • Sàng lọc thiếu năng sinh dục không được khuyến nghị vì hiệu quả chi phí và ảnh hưởng đối với sức khỏe cộng đồng là khỏng rõ ràng. Các công cụ sàng lọc đang được phát triển, nhưng các đặc điểm hiệu suất vin chưa được thiết lập một cách chặt chẽ. Ngược lại, phát hiện trường hợp bảng cách đo nồng độ testosterone có thế phù hợp ở những người đàn ông có triệu chứng nghi ngờ suy sinh dục, chẳng hạn như những người có triệu chứng rối loạn tình dục, gãy xương do chấn thương nhẹ, và những người dùng glucocorticoid hoặc opioid. Nam giới có triệu chứng mắc các bệnh như HIV, bệnh phoi tac nghẽn mạn tính, bệnh thận, và bệnh tiểu đường type 11, có liên quan đến nồng độ testosterone thấp, cũng có thể được xét nghiệm.

Một số khuyến cáo:

  •  Đánh Giá các bệnh lý hệ thống, sử dụng thuốc và các chất có thế cản trở quá trình sản xuất/hoạt động của testosterone (Mạnh).
  • Tổng testosterone phải được đo vào buổi sáng (07:00 và 11:00 giờ) và ở trạng thái đối, với xét nghiệm đáng tin cậy trong phòng thí nghiệm (Mạnh).
  • Lập lại tổng lượng testosterone ít nhất hai lần riêng biệt khi < 12 nmol/L và trước khi bắt đầu điều trị bằng testosterone (Mạnh).
  • Testosterone toàn phần ngưỡng 12 nmol/L (3,5 ng/mL) là ngưỡng đáng tin cậy dé chẩn đoán suy sinh dục khởi phát muộn (Mạnh).
  • Xin thăm do SHBG và testosterone tự do khí cán thiết (Mạnh).
  • Testosteron tự do tính toán được < 225 pmol/L đã được dé xuất như một ngưỡng có thể chẩn đoán suy sinh dục (Yếu).
  • Phân tích nồng độ LH va FSH đế phân biệt giữa suy sinh dục nguyên phát và thứ phát (Mạnh).
  • Cân nhắc do prolactin (PRL) nếu ham muốn tình dục tháp (hoặc các dấu hiệu/ triệu chứng
  • gợi ý khác) và có lượng testosterone thấp hoặc thấp ở mức bình thường (Mạnh).
  • Thực hiện chụp cộng hưởng từ tuyến yên (MRI) trong suy sinh dục thứ phát, với PRL tăng cao hoặc các triệu chứng cụ thể của khối u tuyến yên và/hoặc sự hiện diện của các thiếu hụt hormone thuỳ trước tuyến yên khác (Mạnh).
Sơ đồ 16.2. Các bước chẩn đoán chi tiết suy sinh dục nam giới
Sơ đồ 16.2. Các bước chẩn đoán chi tiết suy sinh dục nam giới

ĐIỀU TRỊ

Thay đổi lối sống

Thay đổi lối sống chỉ quan trọng đối với suy sinh dục khởi phát muộn: giảm cân, giảm mỡ trong cơ thế và tập thể dục thường xuyên có thế làm tăng mức testosterone nội sinh. Thay đói lồi sóng có thể cải thiện sự cân bằng testosterone, trong trường hợp không điều trị thay thế nội tiết tố tích cực, tuy vậy, việc giảm cân đáng kể hơn 10% rít khó duy trì thường xuyên ở bệnh nhân. Vì vậy, việc điều trị bổ sung là cần thiết trong những trường hợp này. Ngay cả khi kết quả có thể nhận thấy sự dip ứng, việc tuần thai giảm cân bền vững trong thời gian dài là thấp, do đó, khả nàng testosterone giảm sẽ xuất hiện trở lại bất cứ khi nào con nặng tăng lên.

Phòng ngừa thiếu hụt testosterone vẫn là mục tiêu hàng đầu bằng việc quản lý và điều trị các yếu tố có thể thay đói được, ching hạn như kiểm soát cân nặng, hoạt động thể thao thường xuyên và giảm uống rượu, nhưng trong phần lớn các trường hợp, rit khó dé duy trì lâu dài.

Liệu pháp testosterone thay thế

Hiện tại, liệu pháp bổ sung testosterone là phương pháp duy nhất giúp kiểm soát các triệu chứng của thiếu hụt testosterone, bát kế đối với lĩnh vực thuế chát, tâm lý hay tình duc.

Không có sự đồng thuận rõ ràng về ngưỡng bắt đầu điều trị bằng testosterone. Hiện có nhiều hướng dẫn khác nhau dé chin đoán và điều trị suy sinh dục: suy sinh dục khởi phát muộn (tống testosterone < 8 nmol/L) nên được điều trị bằng liệu pháp testosterone, những người có tổng mức testosterone từ 8-12 nmol/L kèm các triệu chứng suy sinh dục nên được điều trị. Các hướng din khác khuyến nghị chỉ điều trị các trường hợp có testosterone dưới 8 nmol/L kèm theo triệu chứng thực thể.

Mối quan tâm chính trong liệu pháp thay thế testosterone được khuyến nghị là sự an toàn mạch máu vì gợi ý về nguy cơ đột quỵ tăng lên, mặc dù đã giảm các biến cố tim mạch nghiêm trọng như tử vong, nhồi máu cơ tim không tử vong và đột quỵ. Một số nghiên cứu cho thấy tác dụng có lợi của testosterone đối với các yếu tố nguy cơ tim mạch.

Tuy vậy, các nghiên cứu gin đây cho thấy các kết quả khác nhau cho thấy sự gia tăng các biến cố mạch máu khi có liệu pháp bổ sung testosterone. Do dữ liệu trái ngược này, FDA (Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm) vin khuyến nghị rằng cần có các nghiên cứu can thiệp lớn hơn đế có kết luận chắc chắn về việc điều trị bằng testosterone có an toàn cho tim mạch hay khong. EMA (Cơ quan Dược phẩm châu Âu) da nhất trí rằng không có bằng chứng nhất quán về việc tăng nguy cơ mắc các vấn đề về tim khi thay thế testosterone ở nam giới thiếu hormone.

Nhìn chung, liệu pháp này có những lợi ích rõ ràng đối với chức năng cương dương, với các cuộc giao hợp thỏa mãn sau ít nhất 3 tháng bổ sung testosterone. Ngoài ra, điều trị bằng testosterone ở nam giới suy sinh dục giúp cải thiện đáp ứng điều trị đối với chất ức chế phosphodiesterase-5. Nhìn chung bổ sung testosterone có tác động tích cực đến chức năng cực khoái và xuất tinh. Hứng thú tình dục xuất hiện sau 3 tuần đầu tiên sử dụng và đặt mức 6n dinh sau 6 tuần.

Nồng độ testosterone nên được do định kỳ để có liệu pháp bổ sung chính xác vào thời điểm 3, 6 và 12 tháng sau khi bắt đầu điều trị.

Có một số khuyến nghị về sàng lọc testosterone tích cực trong các nhóm nguy cơ đặc biệt của nam giới:

  • Tiểu đường type 2.
  • Hai chứng chuyển hóa.
  • Bệnh phổi mạn tính vừa đến nặng,- Loãng xương. Tiền sử võ sinh.
  • Điều trị bằng steroid, thuốc phiện và thuốc chống co giật.
  • Lạm dụng rượu.
  • Rối loạn cương hoặc mất khả năng cương cứng tự phát.
  • Mất ham muốn tình dục.
  • Một số chống chỉ định của liệu pháp testosterone thay thế:
  • Ung thư tuyến tiền liệt.
  • Ung Thư vú.
  • Phát hiện hạch xơ cứng khi khám tiền liệt tuyến.
  • Nồng độ kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt > 4 pg/L, hoặc > 3 ug/ L ở nam giới có nguy cơ cao (ví dụ: người châu Phi, họ hàng thế hệ thứ nhất của nam giới bị ung thư tuyến tiền liệt)..
  • Ngưng thở nghiêm trọng lúc ngủ không điều trị được.
  • Suy tim sung huyết không kiểm soát được.

Tóm lại, khi đánh giá suy sinh dục, điều quan trọng là không chỉ nên tập trung vào các loại suy sinh dục cơ bản do tại tỉnh hoàn hay trung ương, vùng dưới đồi và tuyến yên; mà sự thiếu hụt một phần testosterone có thế xảy ra do tăng độ tuổi (suy sinh dục khởi phát muộn), hoặc thứ phát do tăng cân (lên đến 30% nam giới mắc hội chứng chuyển hóa và 50% nam giới mắc bệnh tiểu đường), hoặc suy sinh dục thứ phát được phát hiện sau khi sử dụng steroid mạn tính hoặc sau khi tiếp xúc lâu với căng thẳng, đặc biệt là ở nam giới trẻ tuổi. Tất cả các loại suy sinh dục ảnh hưởng đến nam giới trẻ, trung niên hoặc già có những đặc điểm và cách tiếp cận điều trị khác nhau. Phương pháp điều trị nén được cá nhân hóa cho từng Loại thiếu năng sinh dục và nên xem xét các tác động tích cực và tiêu cực có thế xảy ra. Các phương pháp có thế có tác dụng điều trị tốt như: thay đổi lối sống, giản cân bền vững tăng cường tập thể dục, liệu pháp bổ sung testosterone và điều trị hỗ trợ sinh sản.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bhasin S, Cunningham GR, Hayes FJ, et al, and the Task Force, Endocrine Society. Testosterone therapy in men with androgen deficiency syndromes: an Endocrine Society clinical practice guideline. J Clin Endocrinol Metab 2010; 95: 2536-59.
  2. Araujo AB, Esche GR, Kupelian V, et al. Prevalence of symptomatic androgen deficiency in men. J Clin Endocrinol Metab 2007.
  3. Rosen RC, Araujo AB, Connor MK, et al. The NERI Hypogonadism Screener: psychometric validation in male patients and controls. Clin Endocrinol (Oxf) 2011; 74: 248-56.

4.Basaria S, Coviello AD, Travison TG, et al. Adverse events associated with testosterone administration. N Engl] Med 2010; 363: 109-22.

  1. Spitzer M, Basaria S, Travison TG, et al. Effect of testosterone replacement on response to sildenafil citrate in men with erectile dysfunction: a parallel, randomized trial. Ann Intern Med 2012;157: 681-91.
  2. Wikstrom AM, Dunkel L. Klinefelter syndrome. Best Pract Res Clin Endocrinol Metab 2011; 25: 239-50.

CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ

Câu 1. Định lượng nồng độ testosterone trong huyết thanh nên được thực hiện vào thời điểm nào trong ngày:

  1.  4-7h.
  2. 7-11h.
  3. 11h- 16h.
  4. 16h-22h.

Cau 2. Các nguyên nhân sau gây suy sinh duc nguyên phát, ngoại trừ:

  1. Suy tuyến yên.
  2. Hội chứng Klinefelter.
  3. Viêm tinh hoàn.
  4. Đột biến thụ thế LH.

Câu 3. Một trẻ trai, 15 tuổi, không có biểu hiện dậy thì, thấp hơn so với tuổi, tinh hoàn không tăng kích thước, nồng độ testosterone trong huyết thanh thấp và giảm khả năng nhận biết mùi. Chẩn đoán có thể đặt ra ở trẻ này là:

A Hội chứng Klinefelter.

  1. Hội chứng Noonan.
  2. Hội chứng Kallmann.
  3. Hội chứng Prader Willi.

Câu 4. Các chống chỉ định của liệu pháp testosterone thay thế:

  1. Ung thu vú.
  2. Hct > 50%,
  3. PSA > 4 pg/L.
  4. Tất cả đúng,

Câu 5. Thời điểm cần hoàn thành việc chính sửa phẫu thuật đối với các thay đổi về mặt giải phẫu làm suy giảm chức năng sinh dục:

  1. 6 tháng tuổi.
  2. 1 tuổi.
  3. 2 tuổi.
  4. Trước tuổi dậy thì.

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *