Quai bị – Tổng quan về biểu hiện lâm sàng, điều trị và nguyên tắc phòng bệnh

Quai bị - Tổng quan về biểu hiện lâm sàng, điều trị và nguyên tắc phòng bệnh

Nguồn : NT HN

Quai bị là một bệnh truyền nhiễm do virus gây ra và phân lớn có thể phòng ngừa bằng vắc xin. Thông thường, bệnh khởi phát với vài ngày sốt, đau đầu, đau cơ, mệt mỏi và chán ăn, sau đó là viêm tuyến mang tai; bệnh thường tự giới hạn.

Dịch tễ học

Quai bị xảy ra trên toàn thế giới; tỷ lệ mắc cao nhất thường vào cuối mùa đông đến đầu mùa xuân, mặc dù các đợt bùng phát lẻ tẻ có thể xảy ra vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Bệnh gặp phố biến nhất ở trẻ em độ tuổi đi học và thanh niên trong độ tuổi đại học; hiếm gặp ở trẻ dưới 1 tuổi, do được bảo vệ nhờ kháng thể từ mẹ truyền sang.

Lây truyền

Quai bị có khả năng lây nhiễm rất cao và được truyền qua giọt bắn đường hô hấp, tiếp xúc trực tiếp, hoặc trung gian. Bệnh lây lan nhanh chóng trong môi trường tập thể như ký túc xá đại học. Nhiễm bệnh ở trẻ em trong độ tuổi đi học có thể liên quan đến sự lây lan tiếp theo cho các thành viên trong gia đình.

Sự thải virus trong các dịch tiết đường hô hấp xảy ra trước khi khởi phát triệu chứng lâm sàng. Thời gian ủ bệnh thường là 16-18 ngày (dao động từ 12 đến 25 ngày) tính từ khi phơi nhiễm đến khi xuất hiện triệu chứng. Trong một bài tổng quan bao gồm 15 nghiên cứu theo dõi khả năng lây nhiễm của virus quai bị theo thời gian, khả năng lây nhiễm có thể được phát hiện sớm từ 7 ngày trước khi khởi phát đến 8 ngày sau khi xuất hiện viêm tuyến mang tai. Mức độ lây nhiễm cao nhất xuất hiện ngay trước khi khởi phát viêm tuyến mang tai, sau đó viral shedding giảm nhanh chóng trong 5 ngày tiếp theo. Đến ngày thứ 6-9 sau khi khởi phát viêm tuyến mang tai, hiệu giá virus và khả năng lây nhiễm rất thấp.

Biểu hiện lâm sàng

Thời gian ủ bệnh thường là 16-18 ngày (dao động từ 12 đến 25 ngày) tính từ khi phơi nhiễm đến khi khởi phát triệu chứng. Trong một bài tổng quan, mức độ lây nhiễm cao nhất xuất hiện ngay trước khi khởi phát viêm tuyến mang tai, sau đó viral shedding giảm nhanh trong 5 ngày tiếp theo.

Quai bị thường bắt đầu với vài ngày sốt, đau đầu, đau nhức cơ, mệt mỏi và chán ăn; sau đó là tình trạng sưng tuyến nước bọt, thường xuất hiện trong vòng 48 giờ.

Viêm tuyến mang tai thường gặp nhất ở trẻ từ 2 đên 9 tuổi; đau, đôi khi kèm đau tai, thường xuất hiện trước khi tuyến mang tai sưng. Viêm tuyến mang tai có thể một bên hoặc hai bên; trong 90% trường hợp, tổn thương ban đầu một bên sẽ lan sang bên đối diện sau vài ngày. Sưng tuyến mang tai có thể kéo dài tới 10 ngày.

Khi khám lâm sảng, sưng tuyến mang tai có thể làm mất góc hàm dưới, và lỗ ống Stensen có biểu hiện đỏ và giãn rộng. Các xét nghiệm cận lâm sàng có thể cho thấy giảm bạch cầu với lympho tăng tương đối và nồng độ amylase huyết thanh tăng.

Quai bị thường là bệnh tự giới hạn ; hầu hết người bệnh hồi phục hoàn toàn trong vòng vài tuần.

Một số người bệnh chỉ xuất hiện các triệu chứng không điển hình nên có thể không tìm đến cơ sở y tế để thăm khám. Nhiễm không triệu chứng xảy ra trong 15-20% các trường hợp; tình trạng này gặp ở người lớn nhiều hơn trẻ em. Người lớn nếu có nhiễm quai bị có triệu chứng thì dễ gặp biểu hiện nặng hơn so với trẻ em có triệu chứng.

Hiện chưa có bằng chứng chắc chắn cho thấy nhiễm quai bị trong thai kỳ có liên quan đến các biến chứng.

Biến chứng

Quai bị có thể gây ra các biến chứng như viêm tinh hoàn và các rối loạn thần kinh (bao gồm viêm màng não, viêm não và mất thính lực); những biến chứng này vẫn có thể xảy ra ở người đã tiêm vắc xin nhưng vẫn mắc bệnh. Biến chứng của quai bị cũng có thể xuất hiện không kèm viêm tuyến mang tai.

Viêm tinh hoàn hoặc viêm buồng trứng: Viêm mào tinh hoàn là biến chứng chứng thường gặp nhất của quai bị; xảy ra ở nam giới sau tuổi dậy thì với tỷ lệ 15-30%. Triệu chứng thường xuất hiện 5-10 ngày sau khi khởi phát viêm tuyến mang tai, bao gồm sốt cao đột ngột (39-410C) và đau tinh hoàn dữ dội, kèm theo sưng và đó bìu. Tổn thương một bên chiếm 60-80% trường hợp.

Viêm buồng trứng được ghi nhận ở khoảng 5% phụ nữ sau dậy thì mắc quai bị, với các triệu chứng thường gặp như đau vùng hạ vị, sốt và nôn.

Biến chứng thần kinh: Những biến chứng thần kinh hay gặp của quai bị bao gồm viêm màng não, viêm não và mất thính lực. Trước khi chương trình tiêm chủng được áp dụng rộng rãi, quai bị là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây viêm màng não và viêm não do virus, đồng thời là nguyên nhân thường gặp nhất gây điếc (sensorineural hearing loss) mắc phải ở trẻ em.

Các hội chứng thần kinh ít gặp hơn liên quan đến nhiễm quai bị bao gồm hội chứng Guillain-Barre/Viêm đa rễ dây thần kinh tiến triển, viêm tùy cắt ngang và liệt mặt.

Viêm màng não vô khuẩn là biến chứng thần kinh thường gặp nhất của nhiễm virus quai bị: xảy ra ở 1-10% bệnh nhân và gặp ở nam giới nhiều gấp ba lần nữ giới. Viêm màng não có thể xảy ra trước, trong hoặc sau viêm tuyến mang tai do quai bị. Trong một loạt ca, tới một nửa số bệnh nhân xuất hiện viêm màng não mà không có viêm tuyến mang tai. Các biểu hiện lâm sàng thường bao gồm đau đầu, sốt nhẹ và cứng gáy nhẹ.

Xét nghiệm dịch não tủy có thể cho thấy 10-2000 bạch cầu/uL. Tế bào lympho chiếm ưu thế, tuy nhiên neutro có thể ưu thế trong giai đoạn sớm. Nồng độ protein toàn phần trong dịch não tủy thường bình thường hoặc tăng nhẹ. Nồng độ glucose trong dịch não tủy có thể giảm nhẹ. Viêm màng não vô khuẩn do quai bị thường có diễn biến lành tính và hồi phục hoàn toàn không để lại di chứng vĩnh viễn.

Viêm não do quai bị vào khoảng 1/6000 ca bệnh trước khi tiêm chủng được triển khai rộng rãi. Việc tiêm chủng rộng rãi đã gắn liền với sự biến mất của viêm não do quai bị. Bệnh nhân viêm não do quai bị thường biểu hiện sốt, rối loạn trì giác, co giật và liệt một phần hoặc hoàn toàn. Có tới một phần ba số bệnh nhân xuất hiện viêm não mà không kèm viêm tuyến mang tai.

Đặc điểm dịch não tủy tương tự như trong viêm màng não vô khuẩn do quai bị.

Hầu hết bệnh nhân viêm não do quai bị hồi phục hoàn toàn.

Phần lớn bệnh nhân bị giảm thính lực liên quan đến quai bị khởi phát cấp tỉnh; đôi khi một số trường hợp có diễn tiến từ từ hơn. Có thể gặp tổn thương một bên hoặc hai bên. Triệu chứng cải thiện ở nhiều trường hợp.

Các biến chứng khác : Những biến chứng ít gặp hơn đôi khi liên quan đến nhiễm quai bị bao gồm viêm tuyến giáp, tổn thương cơ tim, viêm tụy, viêm thận kẽ và viêm khớp.

Chẩn đoán

Bệnh nhân có biểu hiện điển hình : Cần nghi ngờ chẩn đoán quai bị ở những bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng điển hình (viêm tuyến mang tai hoặc sưng các tuyến nước bọt khác, viêm tinh hoàn hoặc viêm buồng trứng) kèm theo yếu tố dịch tễ liên quan (tiếp xúc đường hô hấp hoặc tiếp xúc trong gia đình với người bị quai bị đã xác định hoặc nghi ngờ). Những người chưa được tiêm chúng có nguy cơ nhiễm bệnh cao nhất; tuy nhiên cũng cần nghĩ đến quai bị ở những người đã được tiêm vaccin nếu có triệu chứng, biểu hiện phù hợp và tiền sử phơi nhiễm. Các bệnh nhân đang được đánh giá nghi ngờ quai bị cần được áp dụng biện pháp cách ly giọt bắn.

Trong bối cảnh có viêm tuyến mang tai (hoặc sưng các tuyến nước bọt khác), chẩn đoán có thể được xác định bằng xét nghiệm cận lâm sàng. Xác nhận nhiễm virus quai bị :

RT-PCR trên mẫu huyết thanh hoặc phết niêm mạc má miệng

Kháng thể IgM của virus quai bị dương tính trong huyết thanh (thường tổn tại tối đa khoảng bốn tuần).

Tại thời điểm thăm khám ban đầu, cần thu thập hai loại bệnh phẩm chẩn đoán :

(1) Phết niêm mạc má hoặc miệng (đề làm RT-PCR, nuôi cấy)

(2) Mẫu huyết thanh giai đoạn cấp (để xét nghiệm IgM quai bị, IgG giai đoạn cấp và PCR trong huyết thanh)

Bệnh phẩm phết niêm mạc mã hoặc miệng nên được lấy càng sớm càng tốt sau khi khởi phát viêm tuyến mang tai (lý tưởng là trong vòng 3 ngày và không quá 8 ngày sau khi khởi phát viêm tuyến mang tai) bằng cách xoa nhẹ tuyến mang tai trước khi dùng que phết.

Đáp ứng IgM trong một số trường hợp có thể chưa được phát hiện cho đến 5 ngày sau khi khởi phát triệu chứng. Do đó, nếu mẫu huyết thanh giai đoạn cấp được lấy ≤ 3 ngày sau khi khởi phát viêm tuyến mang tai và âm tính với cả IgM lẫn PCR thì cần làm lại xét nghiệm IgM trên một mẫu huyết thanh khác được lấy 5-10 ngày sau khi khởi phát triệu chứng.

Xác nhận xét nghiệm quai bị ở những người có tiền sử tiêm vaccin là một thách thức. Nhìn chung, IgM khảng quai bị trong huyết thanh âm tỉnh ở khoảng một nửa số người đã tiêm chủng (không phụ thuộc vào thời điểm lấy mẫu). Ngoài ra, PCR có thể âm tỉnh giả vì người đã tiêm vaccin thải virus với số lượng thấp hơn và trong thời gian ngắn hơn. Chuyển đổi huyết thanh IgG hiện không còn được sử dụng thường quy làm dấu ấn nhiễm quai bị trong bối cảnh này, do ở người đã tiêm vaccin hiếm khi ghi nhận sự tăng gấp bốn lần hiệu giá. Các xét nghiệm huyết thanh học không thể phân biệt giữa đáp ứng sau tiêm chủng và phơi nhiễm quai bị trước đó, và mức kháng thể IgG quai bị cần thiết để bảo vệ khỏi nhiễm bệnh hiện chưa được xác định.

Các chẩn đoán phân biệt khác

Các nguyên nhân virus khác gây viêm tuyến mang tai như cúm A, cận cúm, adenovirus, coxsackievirus, EBV, CMV, HSV, HIV…

Viêm tuyến mang tai do virus có thể phân biệt với viêm tuyến mang tai mưng mủ (do vi khuẩn) nhờ giai đoạn tiền triệu, sau đó là sưng cấp tỉnh các tuyến bị ảnh hưởng, có thể kéo dài 5-10 ngày và thường xảy ra hai bên. Viêm tuyên mang tai mưng mủ thường gặp nhất do Staphylococcus aerius đặc trưng với khởi phát đột ngột, sưng chắc và đỏ vùng trước và sau tai, lan tới góc hàm dưới, kèm đau dữ dội, các biểu hiện toàn thân như sốt cao, rét rung và vẻ mặt nhiễm trùng là thường gặp.

Các nguyên nhân không nhiễm trùng gây viêm tuyên mang tai bao gồm sỏi tuyên nước bọt, u tuyên nước bọt, bệnh Sjogren, sarcoidosis.

Điều trị

Hiện nay chưa có phương pháp điều trị kháng virus đặc hiệu dành cho bệnh quai bị. Việc xử trí chủ yếu là điều trị hỗ tợ, có thể bao gồm sử dụng thuốc giảm đau hạ sốt như paracetamol. Cảm giác khó chịu tại vùng tuyến mang tai có thể được cải thiện bằng biện pháp chườm ấm hoặc chườm lạnh.

Phòng ngừa

Nguyên tắc chung : Việc kiểm soát lây truyền quai bị gặp nhiều khó khăn vì virus hiện diện trong nước bọt nhiều ngày trước khi xuất hiện viêm tuyến mang tai trên lâm sàng, và sự thải virus cũng có thể xảy ra ở những người nhiễm không triệu chứng.

Bệnh nhân bị quai bị phải nhập viện cần được cách ly giọt bắn cho đến khi sưng tuyến mang tai đã hết. Người bệnh quai bị điều trị ngoại trú cần hạn chế tiếp xúc với người khác từ thời điểm được chẩn đoán cho đến ít nhất 5 ngày sau khi bắt đầu xuất hiện triệu chứng, bằng cách nghỉ học hoặc nghỉ làm và ở phòng riêng nếu có thể.

Nhiễm quai bị phần lớn có thể phòng ngừa bằng cách tiêm chủng trước khi phơi nhiễm. Sau khi đã phơi nhiễm quai bị, việc tiêm vắc xin cũng như globulin miễn dịch chưa được chứng minh là có thể phòng ngừa hoặc làm giảm mức độ nặng của bệnh (trong điều kiện không có dịch bùng phát).

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

THÔNG TIN TƯ VẤN