Phản ứng miễn dịch có hại hiếm gặp nhưng nghiêm trọng trên huyết học của các thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch

Phản ứng miễn dịch

Trong những năm gần đây, thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch như các chất ức chế PD1 và PD-L1 (đặc biệt là nivolumab và pembrolizumab) đã trở thành các thuốc quan trọng trong điều trị một số loại ung thư (u sắc tố di căn, ung thư phổi, v.v.). Sự gia tăng sử dụng các thuốc này đi cùng với sự xuất hiện phản ứng miễn dịch có hại ở mọi mức độ

Trong những năm gần đây, thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch như các chất ức chế PD1 và PD-L1 (đặc biệt là nivolumab và pembrolizumab) đã trở thành các thuốc quan trọng trong điều trị một số loại ung thư (u sắc tố di căn, ung thư phổi, v.v.). Sự gia tăng sử dụng các thuốc này đi cùng với sự xuất hiện phản ứng miễn dịch có hại ở mọi mức độ với trên 71% số bệnh nhân được điều trị, trong đó các phản ứng độ 3-4 chiếm 10%. Các phản ứng miễn dịch có hại chủ yếu bao gồm các ảnh hưởng trên da, hệ tiêu hóa, tuyến giáp, gan và các khớp (theo BIP Occitanie 2018,25, 52)

Theo một công bố gần đây (trên tạp chí Lancet Haematol 2019.6, e48-e57), các phản ứng miễn dịch có hại trên huyết học có thể liên quan tới các thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch, mặc dù tần suất gặp thấp hơn nhiều so với các thuốc gây độc tế bào cổ điển. Nghiên cứu quan sát này đã phân tích tất cả các phản ứng miễn dịch có hại trên huyết học có mức độ > 2 ở những bệnh nhân điều trị bằng thuốc ức chế PD1/PD-L1.

Phản ứng miễn dịch

Những dữ liệu này được lấy từ 3 nghiên cứu cảnh giác dược tại Pháp. Từ năm 2014 đến năm 2018, trong tổng số 948 bệnhnhân từ 3 nghiên cứu, 35 bệnh nhân đã xuất hiện các phản ứng miễn dịch có hại trên hệ huyết học có mức độ lớn hơn2, được coi có mối liên hệ với nivolumab (20 bệnh nhân), pembrolizumab (14 bệnh nhân) hoặc atezolizumab (1 bệnh nhân) sử dụng đơn trị liệu (94%). Trong 35 trường hợp này, giảm bạch cầu trung tính, thiếu máu tan máu tự miễn và giảm tiểu cầu do cơ chế miễn dịch là các phản ứng miễn dịch phố biển nhất trên huyết học (mỗi phản ứng xuất hiện ở 9 bệnh nhân, chiếm tỉ lệ 26%), tiếp theo là giảm ba dòng tế bào máu ngoại vi hoặc thiếu máu bất sản ở 5 bệnh nhân (chiếm 14%), giảm hai dòng tế bào máu ngoại vi (2 bệnh nhân, chiếm 6%) và bất sản hồng cầu nguyên phát (1 bệnh nhân, chiếm 3%). Trung vị thời gian xảy ra phản ứng là 10,1 tuần.

Các phản ứng miễn dịch có hại trên huyết học xảy ra ở mức độ nặng, 25 bệnh nhân ở độ 4 (chiếm 71%) và 2 bệnh nhân độ 5 (tử vong liên quan đến giảm bệnh cầu do sốt, chiếm 6%). Đề điều trị các phản ứng miễn dịch có hại trên huyết học, 22 trên 35 bệnh nhân (chiếm 63%) đã được chỉ định dùng corticosteroid đường uống, 5 bệnh nhân (chiếm 14%) sử dụng đường tĩnh mạch và đường uống, 11 bệnh nhân (chiếm 14%) tiêm tĩnh mạch immunoglobulin và 7 bệnh nhân (chiếm 20%) dùng rituximab. 80% số bệnh nhân đã ngừng dùng thuốc vĩnh viễnvà phản ứng có hại đã hồi phục trên 60% số bệnh nhân.

Nghiên cứu quan sát này đã nâng cao nhận thức của chuyên gia y tế về các phản ứng miễn dịch có hại trên huyết học, có khả năng ở mức độ nghiêm trọng và khuyến khích việc tìm kiếm các phát hiện sớm các dấu hiệu và xử trí sớm. Tất cả các phản ứng có hại của thuốc đều cần được báo cáo cho các trung tâm cảnh giác dượckhu vực.

Tên bài gốc: Les effets indésirables hématologiques immunologiques des inhibiteurs de check-point immunologiques : rares mais “grave”

Nguồn: Tạp chí BIP Occitanie 2019;26(1):8.

Tác giả: BS. Pascale Olivier – Toulouse

Người dịch: DS Vũ Đức Hoàn – ThS Dương Khánh Linh

 

 

 

 

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *