MÀY ĐAY MỚI KHỞI PHÁT

Mày đay mới khởi phát

Nguồn: NT ΗΝ

GIỚI THIỆU

Mày đay là bệnh lý thường gặp với tỷ lệ lưu hành khoảng 20% dân số chung. Sang thương mày đay điển hình là màng đỏ, ngứa nhiều. Mày đay thỉnh thoảng kèm theo phù mạch.

Yếu tố khởi phát như thuốc, thức ăn, côn trùng đốt hoặc nhiễm trùng có thể được tìm thấy ở những bệnh nhân mày đay mới khởi phát, mặc dù nhiều trường hợp không tìm thấy nguyên nhân cụ thể, đặc biệt là khi bệnh dai dẳng vài tuần đến vài tháng.

CẤP VÀ MẠN

Mày đay cấp – biểu hiện dưới 6 tuần. Hơn 2/3 trường hợp mày đay mới khởi phát sẽ tự khỏi trong khung thời gian này, và thường tự khỏi trong vòng 1 đến 3 tuần.

Mày đay mạn – khi tái phát, với triệu chứng gần như hầu hết các ngày trong tuần, từ 6 tuần trở lên.

BIỂU HIỆN LÂM SÀNG

Bệnh nhân mày đay mới khởi phát biểu hiện mày đay, mày đay kèm phù mạch, hoặc phù mạch đơn độc. 1/3 bệnh nhân biểu hiện cả mày đay và phù mạch, 30 đến 40% mày đay đơn độc, và 10 đến 20% phù mạch đơn độc.

Sang thương mày đay là màng đỏ, gồ lên, giới hạn rõ. Sang thương có thể hình tròn, hình bầu dục, kích thước đa dạng từ dưới 1 cm đến vài cm đường kính. Ngứa nhiều, có thể ảnh hưởng đến công việc, học tập hoặc giấc ngủ. Triệu chứng hầu như nhiều vào ban đêm.

Các sang thương thoáng qua, thường biển xuất hiện và lan rộng trong vài phút đến vài giờ, sau đó biến mất trong vòng 24 giờ. Nếu sang thương kéo dài lâu, gây đau, hoặc để lại vết bầm sau khi hết, cần cân nhắc đến chẩn đoán mày đay viêm mạch.

Bất kỳ vùng nào trên cơ thể cũng có thể bị ảnh hưởng, mặc dù vùng da tiếp xúc với quần áo hoặc nơi da cọ xát vào nhau (như ở nách) đôi khi bị nặng hơn. Vị trí xuất hiện tổn thương thường không giúp xác định nguyên nhân, trừ khi có tiền sử tiếp xúc cụ thể.

Phù mạch là tình trạng sưng da không do phụ thuộc trọng lực, với ranh giới không rõ ràng và mức độ đỏ da thay đổi. Phù mạch thường ảnh hưởng đến mặt và môi, tay chân, và/hoặc cơ quan sinh dục.

Tuy nhiên, bệnh nhân xuất hiện phù mạch mà không có mày đay cần được đánh giá thêm các rối loạn phù mạch khác, như phù mạch do thuốc, hoặc thiếu chất ức chế C1 esterase di truyền hoặc mắc phải.

Mày đay mới khởi phát
Mày đay mới khởi phát

NGUYÊN NHÂN VÀ SINH LÝ BỆNH

Mày đay trung gian bởi các tế bào mast và basophil ở lớp bì nông của da, trong khi phù mạch trung gian bởi các tế bào này ở lớp sâu hơn của da và mô dưới da.

Khi được hoạt hóa, các tế bào mast và basophil giải phóng nhiều chất trung gian, bao gồm histamine (nguyên nhân chính gây ngứa và đỏ da) và các chất giãn mạch (như leukotriene và prostaglandin, gây sưng tại chỗ ở lớp trên của da và có thể góp phần gây ngứa và đỏ da trong những trường hợp nặng).

Quá trình tương tự sẽ gây phù mạch khi các tế bào mast ở lớp bì sâu và mô dưới da được hoạt hóa. Các tế bào mast và basophil có thể được hoạt hóa qua nhiều cơ chế khác nhau; tế bào mast có thụ thể dành cho IgE cũng như các thụ thể nhận biết một số cấu trúc hóa học đặc trưng trên thuốc, mảnh bổ thể, neuropeptide, protein vi sinh vật và các chất khác.

Bệnh nhân bị mày đay cấp tính thường có khả năng tìm được nguyên nhân cao hơn so với mày đay mạn tính. Tuy nhiên, không thể tìm thấy nguyên nhân trong khoảng 30 đến 50% các trường hợp.

Nhiễm trùng – Nhiễm virus, vi khuẩn và ký sinh trùng có liên quan đến mày đay mới khởi phát, đặc biệt ở trẻ em.

Nhiễm virus và vi khuẩn – Ở một số nghiên cứu trên trẻ em, nhiễm trùng liên quan đến 80% các trường hợp mày đay cấp tính. Mày đay cấp có thể xuất hiện trong lúc đang bị nhiễm trùng hoặc sau khi nhiễm trùng đã khỏi; trong một số trường hợp, mày đay có thể xuất hiện vài tuần sau khi các triệu chứng cấp tính đã biến mất.

Phản ứng mày đay do nhiễm virus ở trẻ đang dùng kháng sinh có thể dễ bị nhầm với dị ứng thuốc kháng sinh. Đáng tiếc là mày đay cấp do nhiễm virus và mày đay do dị ứng kháng sinh thường rất khó phân biệt, và đôi khi cần dùng lại kháng sinh sau này để xác định rằng thuốc không phải nguyên nhân.

Nhiễm ký sinh trùng – Nhiễm ký sinh trùng thường gây mày đay cấp tính tự giới hạn và thường đi kèm với tăng bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi.

Thuốc – Nhiều loại thuốc có khả năng gây mày đay thông qua hoạt hóa tế bào mast bởi IgE, hoặc hoạt hóa không qua miễn dịch thông qua thụ thể MRGPRX2, hoặc thông qua các cơ chế khác.

Kháng sinh beta-lactam – gồm penicillin và cephalosporin; các thuốc này thường gây mày đay thông qua phản ứng trung gian IgE.

Fluoroquinolone – thường gây phản ứng mày đay thông qua MRGPRX2, mặc dù các phản ứng qua trung gian IgE hiếm cũng có thể xảy ra.

Thuốc giãn cơ – gây mày đay thông qua MRGPRX2 hoặc trung gian IgE.

Vancomycin – Phản ứng truyền vancomycin thường xảy ra khi truyền quá nhanh, gây đỏ da lan tỏa, và ít gặp hơn là mày đay kèm theo. Vancomycin kích hoạt tế bào mast qua MRGPRX2 trong đa số trường hợp. Dùng opioid cùng lúc có thể làm tăng nguy cơ phản ứng.

Opioid – như morphine và codeine có thể kích hoạt tế bào mast, và mức độ nhạy cảm khác nhau giữa các bệnh nhân. Hầu hết bệnh nhân chỉ ngứa nhẹ khi dùng liều cao, nhưng một số có thể xuất hiện mày đay rõ rệt. Dextromethorphan, một dẫn xuất opioid trong siro ho cũng có thể gây mày đay qua cơ chế này.

NSAID – có thể gây mày đay và hoặc phù mạch ở một số bệnh nhân.

Thức ăn – Phản ứng dị ứng qua trung gian IgE với thức ăn có thể gây mày đay, thường bắt đầu trong khoảng 30 phút sau khi ăn và giảm dần trong vài giờ đến một ngày.

Ở trẻ em, các thực phẩm thường gây mày đay toàn thân bao gồm sữa, trứng, đậu phộng, các loại hạt, đậu nành và lúa mì. Dị ứng thức ăn cũng có thể gặp ở người lớn, ngay cả khi trước đây họ vẫn ăn được bình thường; điều này thường xảy ra với cá và hải sản.

ĐÁNH GIÁ VÀ CHẨN ĐOÁN

Khai thác bệnh sử và khám lâm sàng – Mục tiêu chính của việc khai thác bệnh sử là loại trừ các bệnh lý nghiêm trọng và xác định các nguyên nhân có thể gây mày đay.

Việc khám lâm sàng, hoặc xem hình ảnh tổn thương da do bệnh nhân cung cấp, là cần thiết để xác định đặc điểm điển hình của tổn thương.

Các bệnh lý cần loại trừ – Đa số các trường hợp mày đay mới khởi phát là lành tính và tự giới hạn.

Các tình trạng cụ thể cần loại trừ bao gồm:

Sốc phản vệ – cần hỏi kỹ về các dấu hiệu và triệu chứng của phản ứng dị ứng toàn thân hoặc sốc phản vệ.

Mày đay viêm mạch – tổn thương kéo dài hơn 24 giờ, đau và để lại vết bầm.

Bệnh lý toàn thân – hỏi thêm về triệu chứng tuyến giáp, sốt, sụt cân, đau khớp.

Khi nào nghi ngờ nguyên nhân do IgE – khi mày đay xuất hiện trong vòng vài phút đến hai giờ sau tiếp xúc với dị nguyên (thuốc, thức ăn, côn trùng…).

Xác định chẩn đoán – dựa vào đặc điểm tổn thương điển hình: mảng đỏ, gồ, giới hạn rõ, ngứa, tự hết trong 24 giờ.

Mày đay mới khởi phát
Mày đay mới khởi phát

ĐIỀU TRỊ

Tư vấn và trấn an bệnh nhân – Mày đay mới khởi phát là tình trạng phổ biến, đa phần tự khỏi trong vòng 6 tuần.

Điều trị bằng kháng histamin H1 – là lựa chọn đầu tay cho tất cả bệnh nhân.

Ưu tiên kháng histamin H1 thế hệ 2 – như cetirizine, bilastine… có hiệu quả tương đương thế hệ 1 nhưng ít buồn ngủ hơn.

Liều dùng và cách dùng – bắt đầu bằng liều chuẩn, có thể tăng gấp đôi hoặc gấp ba nếu chưa kiểm soát được triệu chứng.

Cetirizine: người lớn 10 mg; trẻ em tùy lứa tuổi (2.5–10 mg/ngày).

Diphehydramine: người lớn 25–50 mg; trẻ em 0.5–1.25 mg/kg.

Hydroxyzine: người lớn 25–50 mg; trẻ em 0.5–1 mg/kg.

Thời gian điều trị – tiếp tục dùng cho đến khi hết hoàn toàn tổn thương, sau đó giảm liều dần để tránh tái phát.

Triệu chứng kéo dài >6 tuần – cân nhắc mày đay mạn, dùng kháng histamine liều cao hơn.

Kháng histamine thế hệ đầu – có thể gây buồn ngủ, khô miệng, bí tiểu; tránh dùng ở trẻ nhỏ và người cao tuổi.

Glucocorticoid hỗ trợ – chỉ dùng khi triệu chứng kéo dài dù đã dùng kháng histamine đều đặn.

Người lớn: Prednisone 30–60 mg/ngày, giảm dần trong 5–7 ngày.

Trẻ em: Prednisone 0.5–1 mg/kg/ngày (tối đa 60 mg/ngày).

Điều trị không được khuyến cáo:

Kháng histamine H2 – không cần thiết.

Thuốc bôi tại chỗ – không có lợi ích rõ ràng trong giảm ngứa hoặc làm tổn thương biến mất.

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

THÔNG TIN TƯ VẤN