Lạc nội mạc tử cung là gì? Nguyên nhân và phương pháp điều trị

Lạc nội mạc tử cung là gì? Nguyên nhân và phương pháp điều trị

Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là một bệnh lý mạn tính, tiến triển không rõ nguyên nhân, đặc trưng bởi sự phát triển của mô nội mạc tử cung (NMTC) bên ngoài khoang tử cung và tình trạng viêm mạn tính phụ thuộc estrogen của các cấu trúc giải phẫu bị ảnh hưởng – thường là các cơ quan vùng chậu Đây là một trong những bệnh phụ khoa phổ biến nhất.

Tải bản PDF TẠI ĐÂY

Nguồn: Sách Đại cương sức khỏe tình dục – Chương 2: Rối loạn chức năng tình dục nữ

Lạc nội mạc tử cung và chức năng tình dục nữ

Nhà xuất bản Y học

Chủ biên: PGS.TS.BS. Lê Minh Tâm

Biên soạn

PGS.TS.BS. Tôn Nữ Vân Anh

ThS.BS. Hồ Trần Tuấn Hùng

ThS.BS. Nguyễn Đắc Nguyên

ThS.BS. Trần Thị Như Quỳnh`

KHAI THÁC TIỀN SỬ VÀ KHÁM LÂM SÀNG

GIỚI THIỆU

Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là một bệnh lý mạn tính, tiến triển không rõ nguyên nhân, dặc trưng bởi sự phát triển của mô nội mạc tử cung (NMTC) bên ngoài khoang tử cung và tình trạng viêm mạn tính phụ thuộc estrogen của các cấu trúc giải phẫu bị ảnh hưởng – thường là các cơ quan vùng chậu Đây là một trong những bệnh phụ khoa phổ biến nhất. Người ta ước tính rằng tỷ lệ mắc LNMTC dạo động từ 2% đến 17% ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, đại diện cho hơn 170 triệu phụ nữ trên toàn cầu.

Cơ chế bệnh sinh của LNMTC có thể được giải thích qua sự di chuyển ngược dòng lặp đi lặp lại và sự tồn tại của mô NMTC bị bong ra trong khoang bụng dưới. Các triệu chứng phổ biến nhất của bệnh bao gồm đau bụng kinh (60-80%), dau vùng chậu mãn tính (30-50%), vô sinh (30-40%) và đau khi giao hợp (25-40%). Mức độ nặng của bệnh không tương ứng với các triệu chứng trên lâm sàng.

​​Hình 8.1. Vị trí lạc nội mạc tử cung thường gặp
​Hình 8.1. Vị trí lạc nội mạc tử cung thường gặp

LNMTC đã được phát hiện có ảnh hưởng tiêu cực đến thể chất, tỉnh thần và chất lượng cuộc sống. Các nghiên cứu đã ghi nhận LNMTC có tác động đáng kể đến chất lượng đời sống tình dục ở 33,5-71% người phụ nữ. Vercellini và cộng sự đã kết luận những phụ nữ bị LNMTC có hoạt động tình dục không thường xuyên và kém hơn so với những phụ nữ không bị, trong đó, đau khi giao hợp bị LNMTC sâu, 53% phụ nữ bị LNMTC ở phúc mạc và/hoặc buồng trứng và ở 26% nhóm chứng. Đặc biệt, LNMTC sâu, một dạng LNMTC thâm nhập sâu hơn Smm bề mặt phúc mạc, liên quan đến dây chẳng tử cung, âm dạo, thành ruột, túi cùng âm đạo, niệu quản và bàng quang, có liên quan chặt chẽ đến sự suy giảm chức năng tình dục. Đau khi giao hợp là một triệu chứng thường gặp của LNMTC sâu tại dây chằng tử cung. Các bệnh nhân nằm trong nhóm mắc LNMTC ở túi cùng sau âm đạo có nguy cơ không đạt được thỏa mãn tình dục cao gấp 3 lần và giảm khả năng đạt cực khoái cao gấp 2 lần. Có sự khác biệt có ý nghĩa về chức năng tình dục giữa phụ nữ mắc LNMTC với phụ nữ không mắc. gặp ở 67% phụ nữ

​Hình 8.2. Lạc nội mạc tử cung và tác động lên chức năng tình dục
​Hình 8.2. Lạc nội mạc tử cung và tác động lên chức năng tình dục

Tình dục nữ chịu sự chi phối đa yếu tố bao gồm cả tâm lý nên tác động của cơn đau xảy ra khi giao hợp có thể được làm giảm bởi nhiều yếu tố khác như mức độ thân mật của cặp vợ chóng ngưỡng đau cá nhân, hỗ trợ tình cảm của bạn tình, sự quyến rũ hoặc cảm xúc được điều chỉnh trong hôn nhân và kế cả chất lượng chăm sóc y tế, những yếu tố có thể ảnh hướng đến nhận thức của người phụ nữ.

CƠ CHẾ BỆNH SINH

Đau

Cơn đau liên quan đến LNMTC là yếu tố chính làm giảm chất lượng cuộc sống vì có thể dẫn đến giảm chất lượng giấc ngủ, gia tăng sự căng thẳng, giảm mức độ hoạt động thế chất và gây ra rối loạn tâm thần như lo lắng trầm cảm hay thậm chí là cảm giác có lỗi với bạn tình, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động tình dục của người phụ nữ. Đau khi giao hợp đặc biệt gây khó chịu vì có thể xảy ra bất cứ khi nào cố rắn giao hợp, trong khi đau bụng kinh thường chỉ đau một số ngày nhất định mỗi tháng. Triệu chứng được mô tả chủ yếu là đau sâu bên trong âm đạo, ở có tử cung vùng bụng dưới hoặc đau nông ở vùng âm hộ và một phần âm đạo ngoài.

Cực khoái và thỏa mãn tình dục xuất phát từ nhiều yếu tố tâm lý, giải phẫu và sinh lý. Do cảm giác được sự đau đớn, sợ đau có thể làm giảm kích thích tình dục, giảm tiết chất bôi trơn, co bóp cơ sàn chậu dẫn đến những chấn thương cơ học về niêm mạc âm đạo và cơ niệu đạo, cũng như hạn chế sự xâm nhập của âm dạo.

Ở bệnh nhân LNMTC, đau là do sự đầy ống cổ tử cung không đàn hồi, do chèn ép lén các nốt LNMTC, do sự cố định của các cấu trúc vùng chậu qua quá trình hình thành mô sẹo và xơ hóa thứ phát và do chấn thương thần kinh hoặc các kích thích viêm. Chỉ cần một tác động nhỏ lên nốt LNMTC, cảm giác dau có thế tăng lên dữ dội. Người ta đã chứng minh được rằng các sợi thần kinh cảm giác thường xuyên bị tế bào mô LNMTC xâm lấn và được bao quanh bởi một số chất trung gian hóa học do đại thực bào và tế bào mast cũng như bạch cầu được hoạt hóa tổng hợp và giải phóng trong các tổn thương LNMTC như histamine, tryptase, yếu tố hoại tử u alpha, prostaglandin, serotonin, interleukin-] và các yếu

tó tăng trưởng thần kinh. Các tổn thương  có đặc tính sinh thần kinh rõ rệt với sự gia tăng biểu hiện của các sợi thần kinh mới, sự thay đói phân bố của các sợi cảm giác và tự động Ở một số vị trí và tăng cường điều hòa một số tế bào thần kinh. Sự hiện diện của LNMTC dẫn đến sự điều biến bát thưởng của đầu vào cảm thụ với sự ga tăng tín hiệu thần kinh đi lên vỏ não, do đó, cơn đau bắt nguồn từ các nốt LNMTC đường như dẫn đến nhạy cảm trung tâm và quá mắn toàn thân. Vì vậy, đau khi giao hợp có thể được xem như một loại đau nội tạng thứ phát sau viêm mạn tính và bao gồm một số yếu tố như tăng trương lực, tín hiệu thần kinh tại vỏ não và yếu tố tâm lý.

Trên thực tế, một số phụ nữ học cách thích nghi bằng cách thay đổi tư thế quan hệ nhằm giảm cơn đau. Tuy nhiên, sự khó chịu này thường dẫn đến những hậu quả như giảm khoái cảm, giảm sự thư giãn và thỏa mãn sau khi quan hệ tình dục, hạn chế tán suất giao hợp, tăng sự lo lắng, thiếu tự tin và cuối cùng là suy giảm sóng thể chất lượng đời sống tình dục. Hơn nữa trải nghiệm đau đớn và mát cực khoái lặp đi lặp lại tạo ra những phản xạ tiêu cực gây ra ri loạn chức năng tình dục và né tránh giao hợp, đây cũng có thể là nguyên nhân đổ vỡ của các cặp vợ chồng Bạn tình của những người phụ nữ mắc LNMTC được khuyến khích tham gia vào việc kiểm soát bệnh ngay từ đầu. Việc tư vấn thích hợp cho các cặp đôi về bản chất cùng những hậu quả tiềm ẩn của căn bệnh này với đời sống tình dục có thế giúp cải thiện chất lượng cuộc sống.

Trầm cảm

Tỷ lệ trầm cảm trong dân số nói chung dao động từ 3-1 1%. Trong các nghiên cứu liên quan đền LNMTC và trầm cảm cho thấy các chí số tương tự ở bệnh nhân LNMTC và đau khi giao hợp. Tán suất mắc trầm cảm vào khoảng 86%, trong đó, trầm cảm mức độ trung bình/nặng chiếm 52-54%. Nghiên cứu gần đây của Donatti và cộng sự đã quan sát thấy có mối liên quan giữa cường độ đau do LNMTC và trầm cảm như sau: trong số những người phụ nữ bị trầm cảm vừa đến nặng, 91,7% bị đau bụng kinh dữ dội (p < 0,001) và 61,1% đau vùng chậu mãn tính nặng (p < 0,001). Phân tích cũng chỉ ra rằng cường độ của triệu chứng đau có liên quan đến sự hiện diện và mức độ căng tháng tâm lý.

ĐIỀU TRỊ

Điều trị nội khoa

LNMTC được đặc trưng bởi sự tái phát thường xuyên các triệu chứng và tồn thương ngay cả sau khi đã phẫu thuật cắt bỏ. Do vậy, phương pháp điều trị bảo tồn tập trung vào mục tiêu giảm triệu chứng của LNMTC hơn là khỏi hoàn toàn và đòi hỏi một kế hoạch quản lý suốt đời. Một số loại thuốc đã được sử dụng thành công ở những phụ nữ mắc chứng đau khi giao hợp liên quan đến LNMTC thế thâm nhiễm tử cung sâu bao gồm chất đối vận GnRH, danazol đặt âm dạo, chất ức chế aromatase đường uống, progestin, viên uống tránh thai phối hợp và progesteron đơn thuần. Giải pháp lý tưởng là giảm mức estradiol xuồng khoáng 30-60 pg/ml đủ để gây vô kinh và cải thiện các triệu chứng, đồng thời giảm nhẹ các tác dụng phụ nghiêm trọng như triệu chứng bốc hỏa và giảm tình trạng loãng xương,

Cơ chế thần kinh liên quan đến triệu chứng đau của bệnh lý lạc nội mạc tử cung
Cơ chế thần kinh liên quan đến triệu chứng đau của bệnh lý lạc nội mạc tử cung

​Hình 8.4. Một số cơ chế tác dụng của thuốc lên lạc nội mạc tử cung 
​Hình 8.4. Một số cơ chế tác dụng của thuốc lên lạc nội mạc tử cung

Danazol

Liếu 200 mẹ/ngày x 12 tháng đường uống:

Kết quả nghiên cứu của Razzi và cs đã cho thấy các triệu chứng đau bụng kinh, đau vùng chậu mãn tính, đau khi giao hợp đã biến mất sau ó tháng điều trị và hiệu quả tồn tại đến 12 tháng. Kích thước các nốt LNMTC tại âm đạo giảm từ 3,1 mÍ xuống 1,2 mÍ sau 1 năm.

Liều I00 mg/ngày x6 tháng đường uống:

Một nghiên cứu khác sử dụng danazol liều này và cho thấy hiệu quả tương tự. Tuy vậy, hạn chế của các nghiên cứu là cỡ mẫu khá nhỏ. Cùng với các tác dụng phụ được ghi nhận, hiện nay, trên làm sảng ít sử dụng Danazol với vai trò giảm cơn đau của LNMTC.

Viên uống tránh thai (OCP – Oral Contraceptive Pill)

Nghiên cứu của Vercellini và cộng sự đã kết luận rằng viên uống tránh thai kết hợp có chứa ethinyl estradiol (FE) và progestin thế hệ thứ hai với liều thấp nhất có thể nên được sử dụng như là phương pháp điều trị đầu tay trong các trường hợp LNMTC nguy cơ thấp và trung bình. Bảng cách giảm khối lượng máu chảy thứ phát tối thiểu từ các tổn thương LNMTC, giảm thiểu lưu lượng máu chảy ngược, OCP đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát LNMTC. Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng với giả dược, việc sử dụng OCP trong khoảng thời gian tối thiểu 4 tháng cho thấy có tác dụng giảm đau bụng kinh khoảng 50%. Tuy nhiên, những nghiên cứu khác lại báo cáo rằng không có bát kỳ tác dụng cải thiện cơn đau vùng chậu mãn tính hay đau khi giao hợp. Theo Casper, những bệnh nhân LNMTC có cơn đau vùng chậu tái phát khi đang điều trị bảng OCP cần được chuyển sang một loại OCP khác, đóng thời có sự gia tăng nguy cơ mắc bệnh được quan sát thầy ở những trường hợp sử dụng OCP trước đó và nguy cơ tiến triển thành LNMTC xâm lấn hơn khi sử dụng các loại OCP có chứa liều lượng cao estrogen. Hơn nữa, tình trạng đề kháng Progesterone tạo ra nhiều hiệu quả không mong muốn.

Progestin

Progestin là hợp chất tổng hợp có tác dụng ức chế tiết steroid buồng trứng thông qua feedback ngược lên trục hạ đồi – tuyến yên – sinh dục làm giảm sản xuất FSH và LH, làm giảm lượng máu kinh, làm giảm đáng kể lượng hồng cầu trào ngược vào khung chậu, dẫn đến giảm stress oxy hóa và sự viêm nhiễm. Tương tự với OCP,progestin được chứng minh là có tác dụng giảm đau hiệu quả ở 2/3 phụ nữ mắc LNMTC.

Một nghiên cứu so sánh giữa hai hợp chất chứa progestin là NETA và dienogest báo cáo rằng 70% và 72% bệnh nhân rất hài lòng hoặc hài lòng với hiệu quả của thuốc, đóng thời ghi nhận hiệu quả tương đương về giảm đau bụng kinh, giảm triệu chứng đau khi giao hợp hay đau vùng chậu mãn tính. Theo Vercellini và cộng sự, liệu pháp progestin đơn thuần nên dành cho những phụ nữ có nguy cơ cao mắc LNMTC sâu hoặc những trường hợp không dung nạp hoặc chóng chỉ định với OCP.

Tóm lại, những đánh giá từ các nhà nghiên cứu cho thấy việc sử dụng OCP và Progestin còn những vấn đề, cụ thể là: 2/3 phụ nữ có triệu chứng giảm đau và cải thiện tình trạng chung về hoạt động tình dục nhưng 1/3 còn lại không đáp ứng do đề kháng progesterone, tăng nguy cơ thuyên tắc động tĩnh mạch, các tác dụng phụ liên quan đến việc sử dụng progestin, tác dụng giảm thế tích tồn thương LNMTC không thế dự đoán và ít có ý nghĩa trong đại đa số các trường hợp.

Chủ vận GnRH

Một liệu pháp khác được sử dụng hiện nay là kết hợp thuốc chủ vận GnRH với liệu pháp bó sung steroid sinh dục. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, chất chủ vận GnRH có hiệu quả hơn với OCP đối với cơn đau khi giao hợp. Mặc dù có hiệu quả trong bệnh lý LNMTC song có nhiều hạn chế do ức chế quá mức nồng độ estradiol gây ra và khả năng đảo ngược diều trí cũng như cản trở kích thích và ham muốn tình dục không thể đoán trước khi sử dụng các loại chủ vận GnRH dự trữ dạng tiêm.

Đối vận GnRH

Gắn đây, chất đối vận GnRH đường uống với cơ chế cạnh tranh cùng các thụ thể GnRH khiến ức chế sản xuất FSH và LH nồi lên như một liệu pháp điều trị LNMTC hiệu quả và không gây tác dụng bốc hỏa. Những ưu điểm chính được ghi nhận gồm: (1) tạo ra sự ức chế estrogen phụ thuộc vào liều lượng, từ ức chế một phần ở liều thấp đến ức chế gần như hoàn toàn ở liều cao hơn; (2) có khả năng hồi phục sự chế tiết hormone nhanh chóng sau khi ngưng điều trị; (3) cân bằng giữa hiệu quả và an toàn với khả năng dung nạp gợi ý điều chỉnh liều theo từng triệu chứng và mong muốn cá nhân. Các chất đối vận GnRH có trên thị trường hiện nay như elagolix, relugolix (TAK38S) và linzagolix (OBE-2109), trong đó, elagolix đã được FDA Hoa Kỳ phê duyệt vào tháng 7 năm 2018.

Hình 8.5. Cơ chế tác động của thuốc đồng vận và đối vận GnRH lên lạc nội mạc tử cung.
Hình 8.5. Cơ chế tác động của thuốc đồng vận và đối vận GnRH lên lạc nội mạc tử cung.

Elagolix được hấp thu nhanh chóng sau khi uống và thời gian bán hủy trung bình trong huyết tương dạo động từ 2,4-6,3 giờ, chuyển hóa chủ yếu qua gan và bài tiết qua dưỡng tiều hoa. Việt thái nghiệm mù đôi pha III về hiệu quả điều trị LNMTC trong vòng 6 tháng. nữ bị LNMTC từ mũi bình đến nặng dam chia ngẫu nhiên đã ghi nhận những ÿ kết luận sau: Phụ nữ cải thiện tình trạng đau bụng kinh là 46,4%, 75,8% và 19,6% với liều cla golix lần lượt 150 mgx1 lần/ngày và 200mg x 2 lán/ ngày so với nhóm giả dược; (2) tỷ lệ phụ nữ cái thiện triệu chứng đau vùng chậu mãn tính là 50,4%, S4,5% và 36,5% tương đương; (3) đau khi giao hợp giảm hơn sau 3 tháng điều trị với liều elavil 200mg x 2 lần/ngày nhiều hơn đáng kể so với giả dược. Tác dụng phụ bốc hỏa vị loãng xương thường được báo cáo tùy thuộc vào liều lượng liều elagolix càng cao, tỷ lệ bốc hỏa và loãng xương được ghi nhận càng nhiều. Ở những phụ nữ có chức năng gan bình thường hoặc suy gan nhẹ, thời gian điều trị tối đa được khuyến cáo là 24 tháng với elago 150 mg x 1 lán/ngày vào tháng với elapoli 200 mgx2 /ngày.

Linzagolix sinh khả dụng đường uống cao, thời gian bán hủy từ 15-18 giờ, không ảnh hưởng đến thực phẩm. Donnez và cộng sự đã nghiên cứu tác động của các liều lượng linzagolix khác nhau được dùng l lán/ngày trong ó tháng trên 328 bệnh nhân liên quan đến LNMTC. Kết quả cho thấy tỷ lệ phụ nữ giảm trên 30% tổng số cơn đau vùng chậu nói chung sau 3 tháng điều trị là 61,5%, 56,4% và 56,3% tương ứng lần lượt với các liều 75 mg, 100 mg và 200 mg so với 34,5% ở nhóm giả được. Tình trạng đau vùng chậu được nhận thấy rõ từ 1-2 tuần sau khi bắt đầu điều trị. Tỷ lệ giảm trên 30% triệu chứng đau bụng kinh và đau vùng chậu mãn tính sau 6 tháng điều trị là 58,3% và 72,9% với liều 75 mg, 82,1% và 64,1% với liều 100 mg, 84,1% và 72,7% với liều 200 mg. So với nhóm giả dược, đau khi giao hợp giảm đáng kể sau 3 tháng điều trị bằng linzagolix 200mg, nhưng không có hiệu quả khi sử dụng liều thấp hơn (75 mg hoặc 100 mg). Điều này tương tự với adolix, đối với các lĩnh vực liên quan đến cảm xúc, hỗ trợ về tỉnh thán hay sự tự tin chỉ được hỗ trợ khi sử dụng chất đối vận GnRH liều cao nhất, 200mg/ngày. Tuy vậy, các bác sĩ lâm sàng cần có sự cân nhắc cẩn thận trước khi quyết định phác đồ điều trị vì sự xuất hiện thường xuyên hơn các cơn bốc hỏa và mức độ loãng xương trên bệnh nhân.

Relugolix là hợp chất có thời gian bán hủy từ 37-42 giờ, chuyển hóa chủ yếu qua gan. Phân tích tổng hợp có hệ thống cho thấy mức độ đau trung bình ở triệu chứng đau vùng chậu mãn tính và đau bụng kinh bắt đầu giảm trong tháng đầu tiên điều trị, tuy nhiên, triệu chứng đau khi giao hợp lại không có xu hướng rõ rệt. Việc sử dụng relugolix uống I lần/ngày duy trì trên ố tháng có tác dụng rõ rệt giảm đau bụng kinh và đau vùng chậu mãn tính trong khi tỷ lệ xuất hiện các triệu chứng vận mạch tương tự giả dược. Tóm lại, có những bằng chứng lâm sàng mạnh mẽ cho thấy thuốc đối vận GHRH đường uống có hiệu quả và được dung nạp tốt ở những bệnh nhân bị đau do LNMTC mức độ trung bình đến nặng.

Chất ức chế men aromasc (Al)

Bên cạnh liệu pháp nội tiết tố, từ khi aromase P450 được chứng minh là biểu hiện quá mức ở cả nội mạc tử cung và ngoài tử cung trên bệnh nhân bị lạc nội mạc, một số tác giả đã sử dụng chất ức chế aromatase (AI) để điều trị triệu chứng đau ở phụ nữ tiền mãn kính bị LNMTC và thu được những kết quả khả quan. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng letrozole và norethisterone acetate có hiệu quả hơn trong việc giảm triệu chứng đau khi giao hợp hơn là norethisterone acetate đơn thuần.

Tác dụng phụ của AI như đau khớp, đau cơ, làm tăng hoạt động của tế bào hủy xương và làm mất mật độ khoáng của xương có thể nghiêm trọng hơn tác dụng phụ gây ra bởi Progesteron và OCP, do đó làm giảm sự tuân thủ điều trị lâu dài của bệnh nhân. Do vậy, việc kết hợp AI với norethisterone acetate có thể làm giảm những tác dụng không mong muốn và làm giảm tỷ lệ ngừng thuốc hơn so với sự kết hợp giữa AI và triptorelin.

Điều trị can thiệp

Đối với những trường hợp LNMTC sâu, tổn thương xâm nhập vào thành trước trực tràng và thành sau ảm đạo, dường như khả năng tái phát các triệu chứng đau bụng kinh hay đau khi giao hợp thường xuất hiện vào những thời điểm khác nhau sau khi ngưng điều trị bằng liệu pháp nội tiết tố cho thấy phương pháp này không điều trị khỏi dứt điểm. Do đó, cần có sự cân nhắc đến điều trị ngoại khoa.

Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng phẫu thuật cắt bỏ các tổn thương sâu trong LNMTC làm giảm rõ rệt mức độ nghiêm trọng của triệu chứng đau khi giao hợp và cải thiện chức năng tình dục. Tuy nhiên, phẫu thuật lại đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao, có liên quan đến việc làm nặng hơn tình trạng bệnh và có thể hiệu quả một phần hoặc tạm thời. Sau điều trị bằng phẫu thuật 6-12 tháng, nhiều phụ nữ đã cảm thấy thoải mái hơn, tăng tần suất và tăng sự thỏa mãn khi giao hợp do cắt bỏ hoàn toàn các tổn thương LNMTC và phục hồi cấu trúc giải phu vùng chậu, do đó giúp cải thiện các triệu chứng trầm cảm.

Hiệu suất ở nhóm phẫu thuật được cải thiện đáng kể trong thời gian ngắn và sau đó giảm dần. Sau 1 năm phẫu thuật, phụ nữ có khuynh hướng duy trì xu hướng tình dục song có cảm giác đau hơn một chút khi giao hợp. Nghiên cứu cho thấy phẫu thuật kết hợp với liệu pháp progestin liều thấp có hiệu quả trong việc cải thiện chức năng tình dục, sức khỏe tâm lý và chất lượng cuộc sống. Do vậy, ngày càng có nhiều sự đồng thuận cho rằng nên cung cấp cho bệnh nhân LNMTC không có ý định thụ thai liệu pháp nội tiết tố sau phẫu thuật một cách có hệ thống.

​Hình 8.6. Phẫu thuật nội soi loại bỏ tổn thương lạc nội mạc tử cung
​Hình 8.6. Phẫu thuật nội soi loại bỏ tổn thương lạc nội mạc tử cung

Bên cạnh đó, việc loại bỏ hoàn toàn LNMTC sâu có thể gây rồi loạn chức năng bộ phận sinh dục, bàng quang và ruột. Trong quá trình bóc tách nốt LNMTC khỏi trực tràng và dây chằng tử cung, các dây thần kinh tự chủ tại trực tràng và bàng quang có thể bị tổn thương dẫn đến rối loạn chức năng tiết niệu, đại tiện và tình dục. Hơn nữa, phẫu thuật cắt bỏ ruột và phần lớn dây chằng tử cung có thể gây ra sẹo túi cùng Douglas, góp phần làm suy giảm chất lượng đời sống tình dục. Do vậy, người phụ nữ cần được tư vấn và nhận thức đầy đủ về những nguy cơ tiềm ẩn này trước khi phẫu thuật.

Liệu pháp tâm lý

Trầm cảm và căng thẳng ở mức độ nặng có xu hướng gây ra tổn thương cảm xúc cao hơn. Do vậy, cần thiết có một biện pháp can thiệp để hỗ trợ những bệnh nhân này giúp cải thiện chứng trầm cảm vị căng thẳng. Các phương pháp tiếp cận góc độ tâm lý của bệnh nhân mắc LNMTC cần giải quyết các vấn đề về gia tăng chất lượng cuộc sống, giải quyết khó khăn về các mối quan hệ hay tình dục, vấn đề về công việc, giảm thiểu trầm cảm và lo lắng khi đối mặt với những khó khăn cho việc điều trị hay sự hiện diện liên tục của những cơn đau và căng thẳng, gia tăng tầm quan trọng của liệu pháp bổ sung khác, trong đó mục tiêu chủ yếu là giảm đau và lo lắng thông qua các bài tập thư giãn đầu óc, vận động thể chất và thay đổi thói quen ăn uống. Thêm vào đó, các chuyên gia sản phụ khoa tham gia vào quá trình điều trị và quản lý LNMTC nên có những cuộc trò chuyện chuyên sâu hơn về chất lượng tình dục của bệnh nhân một cách tế nhị.

Hoạt động thể chất

Sự suy giảm hoạt động thể chất ở Phụ nữ bị LNMTC có thể liên quan đến đau vùng chậu. Tập thể dục là một yếu tố quan trọng trong việc giảm đau. Zhao và cộng sự đã chứng minh rằng tập luyện thư giãn cơ bắp có hiệu quả trong việc giảm đau, giảm lo lắng và trầm cảm ở những phụ nữ bị LNMTC đang điều trị với liệu pháp hormone. Stanton và cộng sự đã chứng minh tác động tích cực của hoạt động thể chất đối với chức năng tình dục.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bulun S.E. Yilmaz B.D.,Sison C., Miyazaki K, Bernardi L., Liu S„Kohlmeier A„YinP.,MiladM. Wei J. Endometriosis. Endocr. Rev.2019;1:1048-1079.
  2. La Rosa V.L, De Franciscis P„ Barra È„ Schiattarella A, Török P„ Shah M„ Karaman E„ Marques Cereniti T„ Di Guardo E„ Gullo G,, et al. Quality of life ¡n women with endometriosis: A narrative overview. Àfinerva Mced. 2020;111:68-78.
  3. Pessoa de Farias Rodrigues M., Lima Vilarino E., de Souza Barbeiro Munhoz A„ da Silva Paiva L„, de Alcantara Sousa IV. Zaia V„ Parente Barbosa C. Clinical aspects and the quality of life among women with endometriosis and infertility: A cross-sectional study. BMC Worsens Health, 2020;12:124.

CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ

Câu 1. Câu nào sau đây sai khi nói về bệnh lý lạc nội mạc tử cung (LNMTC)?

  1. LNMTC là bệnh lý mạn tính, chưa rõ nguyên nhân.
  2. LNMTC được đặc trưng bởi sự phát triển mô nội mạc tử cung bên ngoài khoang tử cung.
  3. LNMTC có thể được hình thành do sự di chuyển ngược dòng trong một chu kỳ kinh nguyệt khi mô nội mạc tử cung bị bong ra.
  4. LNMTC có tác động tiêu cực đến thế chất và tính thần của người phụ nữ. :

Câu 2. Vị trí thường gặp nhất của LNMTC ảnh hưởng đến chức năng tình dục là:

  1. Buồng trứng.
  2. Dây chằng tử cung.
  3. Phúc mạc.
  4. Lớp cơ tử cung.

Câu 3. Nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến chức năng tình dục của phụ nữ mắc bệnh lý LNMTC?

  1. Đau khi giao hợp.
  2. Trầm cảm.
  3. Đau theo chu kỳ kinh nguyệt.
  4. Rong kinh.

Câu 4. Câu nào sau đây sai khi nói về nguyên tắc điều trị LNMTC?

  1. Ưu Tiên cải thiện triệu chứng đau, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
  2. Trong điều trị bảo tồn, cần lưu ý các tác dụng phụ nghiêm trọng do thuốc gây ra như triệu chứng bốc hoả hay tình trạng loãng xương.
  3. Sau khi phẫu thuật cắt bỏ LNMTC, có thể theo dõi trong thời gian 3 tháng sau đó và kết thúc theo dõi nếu không tái phát.
  4. Quản lý LNMTC dần thiết một kế hoạch quản lý suốt đời để tránh tái phát.

Câu 5. Trong các câu sau, câu nào sai khi nói về tác dụng của phương pháp điều trị bảo tồn trong bệnh lý LNMTC?

  1. Danazol là lựa chọn đầu tay cho hầu hết trường hợp LNMTC.
  2. OCP được chứng minh là có tác dụng giảm đau bụng kinh trong khoảng S0% trường hợp.
  3. Liệu pháp progestin đơn thuần ít được khuyến cáo cho những phụ nữ mắc LNMTC sâu hoặc những trường hợp đề kháng progesterone.
  4. Đối vận GnRH đường uống hiện nay được ưu tiên sử dụng để điều trị LNMTC sâu với tác dụng giảm rõ rệt triệu chứng dau khi giao hợp.

1 thoughts on “Lạc nội mạc tử cung là gì? Nguyên nhân và phương pháp điều trị

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *