Hiểu thêm về Alpha Thalassemia và Beta Thalassemia trong thai kỳ

Hiểu thêm về Alpha Thalassemia và Beta Thalassemia trong thai kỳ

Biên dịch Bác sĩ Vũ Tài

nhathuocluuanh.HỘI CHỨNG THALASSEMIA (Williams Obstetrics, 26E)

Hàng trăm đột biến ảnh hưởng đến các gen kiểm soát sản xuất hemoglobin (Benz, 2018). Một số đột biến trong số này làm suy giảm tổng hợp một hoặc nhiều peptit globin bình thường và có thể dẫn đến hội chứng lâm sàng đặc trưng bởi các mức độ khác nhau của việc tạo hồng cầu không hiệu quả, tan máu và thiếu máu. Thalassemias được phân loại theo globin bị thiếu hụt. Hai dạng chính liên quan đến việc sản xuất bị suy giảm hoặc không ổn định của α-globin gây ra bệnh α-thalassemia hoặc β-globin gây ra bệnh β-thalassemia. về mặt lâm sàng, chúng có thể được chia thành phụ thuộc truyền máu và không phụ thuộc truyền máu (Taher, 2018).

Alpha Thalassemia

Hai gen α-globin, HBA1 và HBA2, đều được tìm thấy trên nhiễm sắc thể 16. Do bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội chứa tổng cộng 4 gen α-globin, nên sự di truyền của α- thalassemia phức tạp hơn β-thalassemia (Piel, 2014). Một số kiểu gen và kiểu hình có thể có trong Table 59-4. Các gen γ-globin được nhân đôi tương tự. Tương ứng, kiểu gen bình thường của tế bào lưỡng bội có thể được biểu thị là αα / αα và γγ / γγ. Trong hai nhóm chính của các yếu tố quyết định α-thalassemia, α° – thalassemia là đột biến của cả hai gen từ một nhiễm sắc thể (— / αα), trong khi α* – thalassemia là đột biến một gen từ một alen (-α / αα dị hợp từ) hoặc từ cá hai alen (-α / -α đồng hợp tử).

Tần suất tương đối của các loại α-thalassemia khác nhau đáng kể giữa các nhóm chủng tộc và tất cả đều gặp ở người châu Á. Ờ những người gốc Phi, mặc dù bệnh α- thalassemia thể nhẹ có tần suất xấp xỉ 2%, bệnh hemoglobin H rất hiếm gặp và bệnh hemoglobin Bart không được báo cáo. Điều này là do người châu Á thường mắc bệnh α°-thalassemia thể nhẹ di truyền với cả hai gen thường bị mất từ cùng một nhiễm sắc thể (— / αα), trong khi người da đen thường mắc bệnh α+- thalassemia thể nhẹ, trong đó mất một gen trên mỗi nhiễm sắc thể (-α / -α ).

TABLE 59-4

Genotypes and Phenotypes of α-Thalassemia Syndromes

Genotype Genotype Phenotype
Normal αα/αα Normal
α*-Thalassemia heterozygote -α/αα

αα/-α

Normal; silent carrier
α*-Thalassemia homozygotea αo-Thalassemia heterozygoteb -α/-α

–/αα

α-Thalassemia minor—mild hypochromic, microcytic anemia
Compound heterozygous α°/α* -/-α Hb H (β4) disease with moderate to severe hemolytic anemia
Homozygous α-thalassemia Hb Bart (γ4) disease, hydrops fetalis

aMore common in African Americans. bMore common in Asian Americans.

Thai kỳ

Các khía cạnh sản khoa quan trọng của một số hội chứng α-thalassemia phụ thuộc vào số lượng gen bị mất ở thai phụ. Mức độ nặng trên lâm sàng tương quan chặt chỗ với mức độ suy giảm tổng hợp α-globin. Người mang bệnh thể ẩn với mất một gen có thể liên quan đến thiếu máu nhẹ hồng cầu nhỏ (Andolina, 2020). Mất hai gen gây ra bệnh α-thalassemia thể nhẹ được đặc trưng bởi thiếu máu hồng cầu nhỏ nhược sắc từ mức độ rất nhẹ đến vừa. Điều này là do α°- hoặc α’ -thalassemia trait, và do đó kicu gcn tương ứng có thể là — / αα hoặc -α / -α. Chỉ có thể phân biệt bằng phân tích DNA (Piel, 2014). Bởi vì không có bất thường lâm sàng nào khác đi kèm với cá hai dạng α- thalassemia thể nhẹ, nó thường không được phát hiện và thường không gây hậu quả cho mẹ (Hanprasertpong, 2013). Thai nhi mắc các dạng thalassemia thể nhẹ này sẽ có hemoglobin Bart (γ4) khi sinh, nhưng khi nồng độ của nó giảm lại không bị thay thế bằng hemoglobin H (β4). Các tế bào hồng cầu nhỏ và nhược sắc, và nồng độ hemoglobin bình thường cho đen giám nhẹ.

Bệnh Hemoglobin H (β4) là kết quả của tình trạng dị hợp tử kép (X°- cộng với α+- thalassemia với sự mất ba trong bon gen alpha (— / – α). Chỉ có một gen a globin chức năng trên mỗi bộ gen lưỡng bội, trẻ sơ sinh sè có hồng cầu bất thường chứa cá hemoglobin Bart (γ4), hemoglobin H (β4) và hemoglobin A. Trong ba loại này hemoglobin Bart (γ4) và hemoglobin H (β4) thai nhi vận chuyển oxy kém. Trẻ sơ sinh có vẻ bình thường nhưng sớm bị thiếu máu tan máu vì hầu hết hemoglobin Bart (γ4) được thay thế bằng hemoglobin H (β4). CÓ người lờn, việc sản xuất hemoglobin A thấp dẫn đến thiếu máu từ trung bình đen nặng và thường trầm trọng hơn trong thai kỳ.

Sự thừa hưởng cả 4 gen α-globin bất thường gây ra bệnh α-thalassemia đồng hợp tử, còn được gọi là bệnh Hb Bart và bệnh alpha thalassemia the nặng. Sự sản xuất Hemoglobin Bart (γ4) chiếm ưu thế. Hemoglobin Bart này có ái lực với oxy tăng lên đáng kể những khả năng vận chuyển oxy đến các cơ quan đích kém và không tương thích với khả năng sống kéo dài. Những thai nhi này bị chết lưu hoặc phù và thường chết ngay sau sinh.

Siêu âm đo chi số tim-lồng ngực thai nhi lúc 12 đến 13 tuần tuổi có thể được sử dụng để xác định những thai nhi bị ảnh hương (Lam, 1999; Zhen, 2015). Siêu âm đánh giá hiệu suất cơ tim – chỉ số Tei – ở nửa đầu thai kỳ đã được nghiên cứu. Những thay đổi trước khi phù thai ở thai nhi bị ảnh hường (Luewan, 2013). Các xét nghiệm không xâm lấn này có thể hỗ trợ trong việc tư vấn thai kỳ.

Beta Thalassemia

Bệnh β-thalassemias bắt nguồn từ sự suy giảm sản xuất β-globin hoặc sự không ổn định của a globin. Các gen mã hóa kiểm soát tổng hợp β-globin nằm trong cụm gen δyP- trên nhiễm sắc thể 11 (Chương 7). Hơn 150 dột bicn diêm trong gen β-globin là được mô tả (Weatherall, 2010). Trong bệnh β- thalassemia, sản xuất β-globin giảm và α-globin dư thừa gây tổn thương màng tế bào. Các thô bệnh β-thalassemias khác bắt nguồn từ sự không ổn định của α-globin (Kihm, 2002).

Trait dị hợp tử là bệnh β-thalassemia thể nhẹ và thường gặp nhất có nồng độ hemoglobin A2 tàng cao. Hemoglobin này bao gồm hai α- và hai δ-globins, và nồng độ thường > 3,5 %. Hemoglobin – bao gồm hai α- và hai γ-globins – cũng thường có nồng độ > 2 %. Một số bệnh nhân mắc bệnh p-thalassemia dị hợp tử thề nhẹ không bị thiếu máu, và những bệnh nhân khác bị thiếu máu từ nhẹ đến trung bình được đặc trưng bởi hồng cầu nhỏ và nhược sắc.

Bệnh β-thalassemia đồng hợp tử – còn được gọi là β -thalassemia the nặng hoặc thiếu máu Cooley – là một rối loạn nghiêm trọng và thường gây từ vong. Tình trạng tan máu điền ra dữ dội và dẫn đến thiếu máu nặng. Nhiêu bệnh nhân trở nên phụ thuộc vào truyền máu, và thừa sắt sau đó, cùng với việc hấp thụ sắt qua đường tiêu hóa nhiều hơn bình thường, dẫn đến tình trạng ứ sắt, gây tử vong trong nhiều trường hợp. Một dạng dị hợp tử của bệnh β-thalassemia có biểu hiện lâm sàng là thalassemia thể trung gian gây thiếu máu mức độ trung bình.

Một số phương pháp điều trị điều trị bệnh β-thalassemia. cấy ghép tế bào gốc đà được ứng dụng để điều trị bệnh β-thalassemia thể nặng (Jagannath, 2014). Các quan sát sơ bộ cho thấy rằng kết hợp thalidomide và hydroxyurea – cà hai đều chống chỉ định trong thai kỳ – có thể có lợi trong việc tăng cường sản xuất hemoglobin (Shah, 2020). Đưa một gen có lent!viral vector vào β-globin được ứng dụng để truyền các tế bào gốc tủy xương đã thu hoạch (Harrison, 2019). Cuối cùng, luspatercept – một protein dung hợp tái tổ hợp – có thể tăng cường sự trưởng thành của hồng cầu để giảm nhu cầu truyền máu (Cappellini, 2020).

Thai kỳ

Bổ sung sắt và folate cho tất cả thai phụ mang bệnh. Những người mắc bệnh β- thalassemia thể nhẹ có thể bị thiếu máu nhẹ khi mang thai (Charoenboon, 2016). Nguyên nhân là do quá trình tạo hồng cầu không hiệu quá chứ không phải do tan máu. Figure 59-3 cho thấy thời gian sống của tế bào hồng cầu ở thai phụ mắc bệnh p thalassemia thể nhẹ tương đương so với thai phụ bình thường. Ở một số thai phục, tình trạng thiếu máu sẽ trầm trọng hơn vì sự tạo hồng cầu hơi bất thường kèm theo sự gia tăng thể tích huyết tương bình thường. Thai chậm tăng trương có liên quan đến bệnh thalassemia thể nhẹ (Vafaei, 2020).

FIGURE 59-3

Erythrocyte-survival times with β-thalassemia minor (black solid line} are comparable to those of normal red cells (shaded area).
Erythrocyte-survival times with β-thalassemia minor (black solid line} are comparable to those of normal red cells (shaded area).

Thalassemia thể nặng và một số thể nặng khác không thường gặp trong thai kỳ trước khi có sự ra đời của liệu pháp truyền máu và thải sắt. Trong một tổng quan, 63 trường hợp mang thai với cách xử trí như vậy đã được báo cáo và không có biến chứng nghiêm trọng (Aessopos, 1999; Daskalakis, 1998). Mang thai được coi là khá an toàn nếu chức năng tim của mẹ bình thường. Truyền máu trong suốt thai kỳ để duy trì nồng độ hemoglobin ở mức 10 g/dL. Kết hợp với theo dõi sự tăng trưởng của thai nhi (American College of Obstetricians and Gynecologists, 2019b).

Chẩn đoán trước sinh

Có thể chẩn đoán α-thalassemia thể nặng của thai nhi bang phân tích DNA sử dụng các kỹ thuật phân tư (Piel, 2014). Chẩn đoán hemoglobin Bart (γ4) thai nhi đã được mô tả bằng kỹ thuật điện di mao mạch hoặc sắc ký lỏng hiệu năng cao (Sirichotiyakul, 2009). Xét nghiệm di truyền phân tư đối với HBA1 và HBA2 xác định 90% trường hợp mất gcn và 10% đột biến điểm ở những người bị ảnh hưởng (Galanello, 201 Ib).

Vì bệnh β-thalassemia thể nặng do nhiều đột biến gây ra nên việc chẩn đoán trước sinh rất khó khăn. Đối với một cá thể, cần phân tích đột biến mục tiêu trước khi xác định đột biến gia đình. Phân tích được thực hiện với sinh thiết gai nhau và các kỹ thuật khác được thảo luận trong Chương 14. Xét nghiệm không xâm lấn sử dụng DNA tự do thai nhi dô chân đoán bệnh β-thalassemia đã được mô lá (Xiong, 2015; Zhang, 2019). Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ cho phép xác định thai bị ảnh hương trước khi chuyển phôi nang.

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *