Tác dụng trên HbA1c của semaglutide dạng uống so với sitagliptin ở trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân người lớn đái tháo đường type 2 không kiểm soát được bằng metformin đơn độc có hoặc không kèm theo sulfonylurea

semaglutide

[JAMA] Tác dụng trên HbA1c của semaglutide dạng uống so với sitagliptin ở trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân người lớn đái tháo đường type 2 không kiểm soát được bằng metformin đơn độc có hoặc không kèm theo sulfonylurea – Thử nghiệm lâm sàng PIONEER 3

Julio Rosenstock, Dale Allison, Andreas L. Birkenfeld và cộng sự

Đăng tải trên JAMA ngày 23/3/2019. doi:10.1001/jama.2019.2942

Cho tới nay chưa có thử nghiệm pha 3 nào so sánh semaglutide dạng uống, một thuốc chủ vận GLP-1 với các nhóm thuốc hạ đường huyết khác. Vì vậy các tác giả đã tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu so sánh hiệu quả và đánh giá tổng quan biến cố bất lợi của semaglutide dạng uống 1 lần/ ngày với sitagliptin 100 mg, phối hợp với metformin trên bệnh nhân đái tháo đường type 2.

Đây là một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3a được ngẫu nhiên hoá, mù đôi, giả dược kép, nhóm song song tiến hành ở 206 vị trí tại 14 quốc gia trong 78 tuần từ tháng 2/2016 đến tháng 3/2018. Trong số 2463 bệnh nhân được sàng lọc, có 1864 bệnh nhân đái tháo đường type 2 người lớn không kiểm soát được bằng metformin có hoặc không kèm sulfonylurea được đưa vào ngẫu nhiên hoá.

Các bệnh nhân được sắp ngẫu nhiên vào các nhóm: hoặc dùng semaglutide uống 1 lần/ ngày với liều 3 mg (n = 466), 7 mg (n = 466), hoặc 14 mg (n = 465), hoặc sitagliptin liều 100 mg (n = 467). Semaglutide được khởi đầu bằng liều 3 mg/ngày, sau đó tăng dần liều mỗi 4 tuần, lên 7 mg/ ngày sau đó lên 14 mg/ ngày, cho tới khi đạt liều của nhóm ngẫu nhiên hoá tương ứng.

Chỉ số kết thúc chính là thay đổi HbA1c, chỉ số phụ quan trọng là thay đổi về trọng lượng cơ thể, đều được đánh giá ở tuần 26 so với thời điểm cơ sở. Cả hai chỉ số này cũng được đánh giá ở tuần 52 và 78 để có thêm các chỉ số kết thúc phụ. Các chỉ số kết thúc được kiểm định về thống kê tính không thua kém đối với HbA1c (giới hạn không thua kém là 0,3%) trước khi kiểm định tính vượt trội đối với HbA1c và trọng lượng cơ thể.

Kết quả cho thấy trong số 1864 bệnh nhân được ngẫu nhiên hoá (tuổi trung bình là 58 [độ lệch chuẩn (SD) là 10] năm; HbA1c trung bình ở thời điểm cơ sở là 8,3% [SD là 0,9%]; chỉ số khối cơ thể trung bình là 32,5 [SD là 6,4%]; nữ giới n=879 [47,2%]), có 1758 (94,3%) bệnh nhân hoàn thành nghiên cứu và 298 bệnh nhân ngừng điều trị sớm (16,7% đối với nhóm semaglutide 3 mg/ ngày; 15,0% đối với nhóm semaglutide 7 mg/ ngày; 19,1% đối với semaglutide 14 mg/ ngày và 13,1% đối với sitagliptin). So với sitagliptin, semaglutide liều 7 và 14 mg/ ngày làm giảm có ý nghĩa HbA1c (lần lượt là –0,3% [độ tin cậy 95% (95% CI) –0,4% đến –0,1%] và –0,5% [95% CI từ –0,6% đến –0,4%]; P < 0,001 đối với cả 2 nhóm) và trọng lượng cơ thể (lần lượt là –1,6 kg [95% CI từ –2,0 đến –1,1 kg] và –2,5 kg [95% CI từ –3,0 đến –2,0 kg]; P < 0,001 đối với cả 2 nhóm) ở tuần 26 so với giá trị cơ sở. Không thấy sự không thua kém của nhóm semaglutide liều 3 mg/ ngày về HbA1c. Semaglutide liều 14 mg/ ngày có mức độ làm giảm các chỉ số kết thúc ở tuần 78 lớn hơn có ý nghĩa thống kê so với sitagliptin.

Các tác giả đi đến kết luận ở bệnh nhân người lớn mắc đái tháo đường type 2 không kiểm soát được bằng metformin có hoặc không kèm theo sulfonylurea, so với sitagliptin, semaglutide liều uống 7 và 14 mg/ ngày có thể làm giảm nhiều hơn một cách có ý nghĩa thống kê chỉ số HbA1c sau 26 tuần, nhưng không thấy lợi ích này với liều 3 mg/ ngày. Cần có thêm các nghiên cứu sâu hơn nhằm đánh giá hiệu quả ở cơ sở điều trị lâm sàng.

Nguồn: JAMA. https://jamanetwork.com/journals/jama/fullarticle/2729339

 

 

 

 

 

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *