Những điều bác sĩ lâm sàng cần biết về thực phẩm bổ sung vitamin và khoáng chất

Thực phẩm chức năng

Thực phẩm chức năng là gì?

Thực phẩm chức năng là ngành công nghiệp trị giá khoảng 30 tỉ dollar ở Hoa Kì, với trên 90.000 sản phẩm trên thị trường. Trong các cuộc thăm dò trên toàn nước Mĩ mới đây, có 52% số người trưởng thành ở Hoa Kì khai báo sử dụng ít nhất một loại thực phẩm chức năng, và ít nhất 10% sử dụng ít nhất 4 loại sản phẩm như vậy [1]. Vitamin và khoáng chất là các thực phẩm chức năng được sử dụng phổ biến nhất, tương ứng bởi 48% và 39% số người trưởng thành, chủ yếu nhằm duy trì sức khỏe và phòng ngừa bệnh tật.

Mặc dù vậy, hầu hết các thử nghiệm lâm sàng về thực phẩm bổ sung vitamin và khoáng chất đều không cho thấy ích lợi rõ ràng của chúng trong dự phòng tiên phát hoặc thứ phát các bệnh lý mạn tính không do thiếu hụt vitamin. Thật vậy, một số thử nghiệm còn gợi ý rằng việc bổ sung vi chất dinh dưỡng với số lượng vượt quá khẩu phần dinh dưỡng khuyến nghị, ví dụ beta caroten, acid folic, vitamin E hoặc selen liều cao có thể gây ra các ảnh hưởng bất lợi, trong đó có tăng tỉ lệ tử vong, ung thư và tai biến xuất huyết mạch não [2].

Trong bài viết này, các tác giả cung cấp các thông tin giúp bác sĩ lâm sàng giải đáp các câu hỏi bệnh nhân thường đặt ra về thực phẩm bổ sung vi chất dinh dưỡng, cũng như khuyến khích việc sử dụng hợp lí cũng như hạn chế việc sử dụng không hợp lí các thực phẩm chức năng nói trên ở người khỏe mạnh nói chung. Quan trọng là các bác sĩ lâm sàng cần chỉ cho bệnh nhân rằng thực phẩm chức năng không phải là sự thay thế cho một chế độ ăn lành mạnh và cân bằng, và trong hầu hết các trường hợp, hầu như không mang lại bất cứ lợi ích nào vượt trội hơn so với chế độ ăn ấy.

Các bác sĩ lâm sàng cũng cần nhấn mạnh rất nhiều lợi ích của vitamin và khoáng chất lấy từ thức ăn thay vì từ các thực phẩm chức năng. Vi chất dinh dưỡng trong thức ăn được cơ thể hấp thu đặc biệt tốt hơn và ít gây tác dụng không mong muốn hơn [2,3]. Một chế độ ăn lành mạnh mang lại một hệ thống các chất quan trọng về mặt dinh dưỡng với tỉ lệ tối ưu về mặt sinh học khi đối chiếu với các hợp chất được phân lập ở dạng nồng độ cao. Thật vậy, các nghiên cứu cho thấy các chỉ số sức khỏe tích cực có mối liên hệ chặt chẽ hơn với các thành phần chế độ ăn và loại thức ăn cụ thể hơn là với lượng vi chất hoặc chất dinh dưỡng riêng rẽ [3].

Tuy việc bổ sung thường qui vi chất dinh dưỡng không được khuyến cáo cho toàn bộ quần thể nói chung nhưng có thể vẫn cần đảm bảo bổ sung vi chất như vậy ở các nhóm đối tượng đích nguy cơ cao, các nhóm này rất có thể không đáp ứng được yêu cầu về dinh dưỡng nếu chỉ bằng chế độ ăn, bao gồm nhóm những người ở một số giai đoạn nhất định trong cuộc đời và nhóm người có nguy cơ cao cụ thể (được trình bày trong 3 mục và bảng dưới đây).

Bảng. Các điểm chính về Thực phẩm bổ sung Vitamin và Khoáng chất

Hướng dẫn chung về bổ sung cho nhóm người khỏe mạnh theo giai đoạn trong cuộc đời
Mang thai: acid folic, vitamin trước khi sinh
Trẻ bú mẹ và trẻ nhỏ: với trẻ bú mẹ, vitamin D đến khi cai sữa và sắt bắt đầu từ 4-6 tháng tuổi
Người trưởng thành tuổi trung niên trở lên: một số người có thể cần bổ sung vitamin B12, D và/ hoặc calci
Hướng dẫn về bổ sung cho nhóm người có nguy cơ cao
Các tình trạng sức khỏe có thể gây ảnh hưởng tới hấp thu hoặc chuyển hóa dinh dưỡng
Phẫu thuật giảm cân: vitamin tan trong dầu, vitamin nhóm B, sắt, calci, kẽm, đồng, đa vitamin/ đa khoáng
Thiếu máu hồng cầu khổng lồ: vitamin B12 (uống 1-2 mg/ngày hoặc tiêm bắp 0,1-1 mg/tháng)
Bệnh Crohn, các bệnh lý viêm ruột khác, bệnh celiac: sắt, vitamin nhóm B, vitamin D, kẽm, magnesi
Loãng xương hoặc các vấn đề về xương: vitamin D, calci, magnesia
Thoái hóa điểm vàng do tuổi: các dạng vitamin chống oxy hóa đặc thù, kẽm, đồng
Các thuốc (sử dụng dài ngày):
Thuốc ức chế bơm proton (a): vitamin B12, calci, magnesi
Metformin (a): vitamin B12
Các thành phần hạn chế hoặc không tối ưu trong chế độ ăn: đa vitamin/ đa khoáng, vitamin B12, calci, vitamin D, magnesi
(a) Bằng chứng không thống nhất.

Phụ nữ có thai

Đã có bằng chứng rất rõ ràng về việc phụ nữ có khả năng mang thai hoặc trong quí đầu của thai kì nên sử dụng acid folic một cách phù hợp (0,4-0,8 mg/ngày) để dự phòng dị tật ống thần kinh. Acid folic là một trong rất ít vi chất dinh dưỡng có sinh khả dụng ở dạng tổng hợp trong thực phẩm chức năng hay thực phẩm bổ sung dinh dưỡng cao hơn so với dạng thức ăn tự nhiên (folate) [2]. Thực phẩm bổ sung đa vitamin/ đa khoáng sẽ cung cấp acid folic cũng như vitamin D và nhiều vi chất dinh dưỡng thiết yếu khác cho quá trình mang thai. Phụ nữ có thai cũng cần được tư vấn ăn chế độ ăn giàu sắt. Tuy cũng cần thận trọng khi kê thực phẩm bổ sung sắt cho phụ nữ mang thai có nồng độ hemoglobin hoặc ferritin thấp với mục đích dự phòng và điều trị thiếu máu thiếu sắt, nhưng việc sàng lọc thiếu máu và bổ sung sắt thường qui trong thai kì vẫn chưa được xác định rõ mối tương quan lợi ích và nguy cơ [2].

Bổ sung calci có thể làm giảm nguy cơ tăng huyết áp thai kì và tiền sản giật, nhưng vẫn cần các thử nghiệm lâm sàng lớn để khẳng định [2]. Việc bổ sung vitamin D liều cao trong thời kì mang thai cũng cần thêm nghiên cứu [2]. Hiệp hội Sản phụ khoa Hoa Kì đã xây dựng một tài liệu phát tay hữu ích dành cho bệnh nhân về việc bổ sung vi chất dinh dưỡng trong quá trình mang thai [4].

Trẻ bú mẹ và trẻ nhỏ

Viện Nhi khoa Hoa Kì khuyến cáo rằng đối với trẻ bú mẹ hoàn toàn hoặc một phần (1) cần bổ sung vitamin D (400 IU/ngày), bắt đầu ngay sau khi sinh và tiếp tục cho đến khi cai sữa để chuyển sang sữa toàn phần có tăng cường vitamin D (≥1 L/ngày) và (2) bổ sung sắt (1 mg/kg/d) từ khi 4 tháng tuổi đến khi bắt đầu ăn thực phẩm có sắt, thường là khi 6 tháng tuổi [5]. Đối với trẻ ăn sữa công thức trong đó đã làm giàu thêm vitamin D và (thường có cả) sắt, nói chung không cần bổ sung thêm các vi chất này. Tất cả các trẻ đều nên được sàng lọc thiếu sắt và thiếu máu thiếu sắt vào năm 1 tuổi.

Những trẻ khỏe mạnh có chế độ ăn cân bằng tốt không cần bổ sung đa vitamin/ đa khoáng, và chúng cũng nên tránh dùng vi chất dinh dưỡng với liều vượt quá nhu cầu khuyến nghị. Trong những năm gần đây, acid béo omega-3 được xem là chiến lược tiềm năng cho việc làm giảm nguy cơ rối loạn phổ tự kỉ hoặc tăng động giảm tập trung ở trẻ em, nhưng chưa có bằng chứng cho điều này từ các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên qui mô lớn.

Người trưởng thành tuổi trung niên trở lên

Đối với vitamin B12, người 50 tuổi trở lên có thể hấp thu kém dạng vitamin tự nhiên gắn protein và như vậy cần được tư vấn bổ sung B12 tổng hợp trong thực phẩm bổ sung hay thực phẩm chức năng [6]. Bệnh nhân thiếu máu hồng cầu khổng lồ đòi hỏi dùng liều cao hơn (xem Bảng).

Đối với vitamin D, lượng khuyến cáo bổ sung hiện hành (lấy từ thức ăn hoặc thực phẩm chức năng) với mục đích duy trì sức khỏe xương là 600 IU/ngày với người trưởng thành dưới 70 tuổi và 800 IU/ngày đối với người trên 70 tuổi [7]. Một số hiệp hội chuyên ngành khuyến cáo liều 1000 đến 2000 IU/ngày, nhưng điều này vẫn còn nhiều tranh cãi về việc liều cao hơn nhu cầu khuyến nghị có mang lại thêm lợi ích hay không. Các thử nghiệm ngẫu nhiên qui mô lớn đang được tiến hành (NCT01169259 and ACTRN12613000743763) sẽ sớm giúp giải đáp các thắc mắc hiện nay.

Đối với calci, nhu cầu khuyến nghị hiện nay là 1000 mg/ngày đối với nam giới 51-70 tuổi và 1200 mg/ngày đối với phụ nữ 51-70 tuổi và người trưởng thành trên 70 tuổi [7]. Do gần đây lo ngại rằng bổ sung calci có thể làm tăng nguy cơ sỏi thận và có thể cả các bệnh tim mạch, bệnh nhân nên cố gắng đạt tới mục tiêu khuyến cáo nói trên chủ yếu bằng chế độ ăn giàu calci và chỉ sử dụng thực phẩm chức năng chứa calci khi cần thiết nhằm đạt mục tiêu nhu cầu khuyến nghị (thường chỉ cần khoảng 500 mg calci/ngày từ thực phẩm chức năng) [2]. Một phân tích gộp gần đây cho thấy bổ sung calci liều vừa phải (<1000 mg/ngày) và vitamin D (≥800 IU/ngày) có thể làm giảm nguy cơ gãy xương và giảm mật độ xương ở phụ nữ sau mãn kinh và nam giới 65 tuổi trở lên [2].

Không khuyến cáo bổ sung đa vitamin/ đa khoáng ở người trưởng thành khỏe mạnh [8]. Một thử nghiệm lâm sàng lớn trên nam giới Hoa Kì thấy rằng việc bổ sung này làm giảm nhẹ nguy cơ ung thư [9], nhưng các kết quả này đòi hỏi phải được lặp lại ở nhiều thử nghiệm lâm sàng lớn nhận cả nữ giới và cho phép phân tích theo tình trạng dinh dưỡng cơ sở, đây là một yếu tố có khả năng quan trọng làm thay đổi ảnh hưởng của điều trị. Một thử nghiệm qui mô lớn kéo dài 4 năm đang được tiến hành (NCT02422745) với kì vọng làm sáng tỏ mối tương quan lợi ích – nguy cơ của thực phẩm chức năng đa vitamin/ đa khoáng trong dự phòng tiên phát ung thư và bệnh tim mạch.

Những điểm quan trọng khác

Khi cùng với bệnh nhân rà soát việc dùng thuốc, các bác sĩ lâm sàng cần hỏi về việc sử dụng thực phẩm bổ sung vi chất dinh dưỡng (và thảo mộc hay các thực phẩm chức năng khác) khi chỉ dẫn về các tương tác có thể xảy ra. Ví dụ, bổ sung vitamin K có thể làm giảm hiệu quả của warfarin, và biotin (vitamin B7) có thể ảnh hưởng tới độ chính xác của xét nghiệm troponin tim và các xét nghiệm sinh hóa khác. Các phần mềm kiểm tra tương tác dùng được cho bệnh nhân đều sẵn có trên mạng không mất phí (tìm kiếm interaction checkers trên drugs.com, WebMD hoặc trang mạng của các nhà thuốc).

Bác sĩ và bệnh nhân cũng cần biết rõ rằng Cơ quan quản lí Dược phẩm và thực phẩm Hoa Kì không có quyền rà soát an toàn và hiệu quả của thực phẩm chức năng trước khi lưu hành. Mặc dù yêu cầu thêm các nhà sản xuất tham gia vào quản lý Thực hành sản xuất tốt (GMP) của cơ quan này, việc theo dõi sự tuân thủ GMP là không tối ưu. Vì vậy, các bác sĩ sẽ muốn tạo thuận lợi cho các sản phẩm cần kê đơn khi có thể, hoặc khuyên bệnh nhân cân nhắc lựa chọn thực phẩm bổ sung được chứng nhận bởi các nhà kiểm tra độc lập để đảm bảo chỉ chứa các thành phần hoạt chất chứ không phải vi khuẩn, kim loại nặng hay các chất độc khác. Bác sĩ (hay bệnh nhân) cần báo cáo các tác dụng không mong muốn nghi ngờ do thực phẩm chức năng cho Cơ quan quản lí Dược phẩm và Thực phẩm thông qua cổng báo cáo thông tin an toàn trực tuyến (Medwatch). Một nguồn thông tin rất tốt khác về thực phẩm chức năng khác dành cho cả bác sĩ và bệnh nhân là trang mạng của Phòng Thực phẩm chức năng của Viện Y tế quốc gia Hoa Kì.

Các bác sĩ luôn có cơ hội để khuyến khích việc sử dụng hợp lí và hạn chế việc sử dụng bất hợp lí thực phẩm bổ sung vi chất dinh dưỡng, và những nỗ lực này của họ rất có thể giúp cải thiện sức khỏe cộng đồng.

Tài liệu tham khảo

Kantor ED, Rehm CD, Du M, White E, Giovannucci EL. Trends in dietary supplement use among US adults from 1999-2012. JAMA. 2016;316(14):1464-1474.
Rautiainen S, Manson JE, Lichtenstein AH, Sesso HD. Dietary supplements and disease prevention: a global overview. Nat Rev Endocrinol. 2016;12(7):407-420.
Marra MV, Boyar AP. Position of the American Dietetic Association: nutrient supplementation. J Am Diet Assoc. 2009;109(12):2073-2085.
American College of Obstetricians and Gynecologists. Nutrition during pregnancy. https://www.acog.org/Patients/FAQs/Nutrition-During-Pregnancy. Published April 2015. Accessed November 20, 2017.
American Academy of Pediatrics. Vitamin D & iron supplements for babies: AAP recommendations. HealthyChildren.org. https://www.healthychildren.org/English/ages-stages/baby/feeding-nutrition/Pages/Vitamin-Iron-Supplements.aspx. Updated May 27, 2016. Accessed November 20, 2017.
Institute of Medicine. Dietary Reference Intakes for Thiamin, Riboflavin, Niacin, Vitamin B6, Folate, Vitamin B12, Pantothenic Acid, Biotin, and Choline. Washington, DC: National Academies Press; 1998.
Institute of Medicine. Dietary Reference Intakes for Calcium and Vitamin D. Washington, DC: National Academies Press; 2011.
Moyer VA; US Preventive Services Task Force. Vitamin, mineral, and multivitamin supplements for the primary prevention of cardiovascular disease and cancer: US Preventive Services Task Force recommendation statement. Ann Intern Med. 2014;160(8):558-564.
Gaziano JM, Sesso HD, Christen WG, et al. Multivitamins in the prevention of cancer in men: the Physicians’ Health Study II randomized controlled trial. JAMA. 2012;308(18):1871-1880.

( JoAnn E. Manson, Shari S. Bassuk; Bài viết đăng tải trên JAMA ngày 05/02/2018).

 

 

 

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *