FDA phê duyệt Pembrolizumab trong chỉ định điều trị bước một ung thư biểu mô tế bào vảy ở đầu cổ

Pembrolizumab

Ngày 10/06/2019, cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) đã phê duyệt Pembrolizumab (KEYTRUDA, Merck & Co., Inc.) trong chỉ định điều trị bước một trên BN ung thư biểu mô tế bào vảy ở đầu cổ (HNSCC – Head and neck squamous cell carcinoma) giai đoạn di căn hoặc tái phát không phẫu thuật được. Trước đó, năm 2016, Pembrolizumab đã được FDA phê duyệt là liệu pháp điều trị bước hai trong HNSCC giai đoạn tái phát hay di căn đã được hóa trị liệu có chứa nhóm platium.

Pembrolizumab

Pembrolizumab được chấp thuận trong sử dụng kết hợp với nhóm platium và 5-fluorouracil (5-FU) đối với tất cả bệnh nhân HNSCC; được sử dụng đơn độc đối với BN có khối u có bộc lộ PD-L1 (Combined Positive Score [CPS] ≥1) xác định bằng test đánh giá đã được FDA phê duyệt. Đồng thời, FDA mở rộng chỉ định sử dụng của kit PD-L1 IHC 22C3 pharmDx dùng để chẩn đoán cho những BN HNSCC được điều trị với pembrolizumab đơn độc.

Pembrolizumab

Chấp thuận này dựa trên nghiên cứu KEYNOTE-048 (NCT02358031), một thử nghiệm lâm sàng, ngẫu nhiên, đa trung tâm, nhãn mở, bao gồm ba nhánh trên 882 BN HNSCC giai đoạn di căn chưa được điều trị hệ thống trước đó đối với giai đoạn di căn hoặc giai đoạn tiến triển không kiểm soát được khi điều trị tại chỗ.

Kết quả nghiên cứu được báo cáo tại hội nghị thường niên ASCO năm 2019.

Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa trong việc cân nhắc sử dụng kết hợp pembrolizumab với nhóm platium và 5- FU như là liệu pháp điều trị bước 1 tiêu chuẩn mới cho BN HNSCC giai đoạn di căn hoặc tái phát.

Nghiên cứu KEYNOTE-048 : BN tham gia nghiên cứu được chia ngẫu nghiên vào ba nhóm sau:

  • Nhóm chỉ sử dụng pembrolizumab;
  • Nhóm sử dụng kết hợp pembrolizumab với 5 FU và carboplatin hoặc cisplatin;
  • Nhóm sử dụng cetuximab kết hợp với 5 FU và carboplatin hoặc cisplatin.

Phân tầng ngẫu nhiên theo:

  • Mức độ biểu hiện PD-L1 (tổng tỉ lệ điểm của bướu TPS ≥ 50% hoặc <50%)
  • Tình trạng HPV (Human Papillomavirus) theo phương pháp hóa mô miễn dịch (IHC – Immunohistochemistry) p16 (dương tính hay âm tính)
  • Tổng điểm ECOG (0 hay 1 điểm).
  • Mức độ biểu hiện PD-L1 (TPS và CPS) được xác định dựa trên kit đánh giá PD-L1 IHC 22C3 pharmDxT
  • Sống thêm toàn bộ (OS – Overall survival) được đánh giá lần lượt đối với nhóm BN HNSCC có điểm CPS ≥ 20, nhóm BN HNSCC có điểm CPS ≥ 1 và quần thể chung tham gia nghiên cứu, được xem là tiêu chí đánh giá chính.

Thử nghiệm đã chứng minh có sự cải thiện có ý nghĩa thống kê thời gian sống thêm toàn bộ ở nhóm BN sử dụng pembrolizumab kết hợp với hóa trị liệu so với nhóm BN sử dụng cetuximab kết hợp với hóa trị liệu.

Trung vị OS của nhóm bệnh nhân sử dụng pembrolizumab kết hợp hóa trị là 13 tháng,

Trung vị OS của nhóm bệnh nhân sử dụng cetuximab kết hợp hóa trị là 10,7 tháng (HR 0,77; 95% CI: 0,63-0,93; p = 0,0067).

Kết quả này tương tự khi phân tích dưới nhóm đối với nhóm BN điểm CPS ≥ 20 (HR 0,69; 95% CI: 0,51-0,94) và nhóm BN điểm CPS ≥ 1 (HR 0,71; 95% CI: 0,57-0,88).

Kết quả của nghiên cứu cũng cho thấy:

  • Khi phân tích dưới nhóm bệnh nhân HNSCC có PD‑L1 CPS ≥1 và PD-L1 CPS ≥20, có sự cải thiện có ý nghĩa thống kê trung vị OS của nhóm BN sử dụng đơn độc pembrolizumab so với nhóm sử dụng kết hợp cetuximab và hóa trị liệu.

Với nhóm BN PD‑L1 CPS ≥1:

  • Trung vị OS của BN sử dụng pembrolizumab đơn độc là 12,3 tháng
  • Trung vị OS của nhóm BN sử dụng kết hợp cetuximab và hóa trị liệu là 10,3 tháng (HR 0,78; 95% CI: 0,64-0,96; p = 0,0171).

Với nhóm BN PD-L1 CPS ≥20:

  • Trung vị OS là 14,9 đối với bệnh nhân sử dụng pembrolizumab đơn độc;
  • Trung vị OS là 10,7 tháng đối với bệnh nhân sử dụng kết hợp cetuximab và hóa trị liệu (HR 0,61; 95% CI: 0,45-0,83; p = 0.0015).

Trong phân tích tạm thời này, kết quả cho thấy chưa có sự khác biệt đáng kể về OS giữa nhóm sử dụng đơn độc pembrolizumab với nhóm sử dụng kết hợp cetuximab và hóa trị liệu trên toàn bộ quần thể BN tham gia nghiên cứu.

Chưa có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian sống không bệnh tiến triển giữa nhánh sử dụng pembrolizumab so với nhánh sử dụng cetuximab kết hợp với hóa trị liệu trên toàn bộ quần thể BN.

Các biến cố bất lợi phổ biến trong thử nghiệm KEYNOTE-48 :

  • Trên nhóm BN sử dụng pembrolizumab đơn độc : 20% BN mệt mỏi, táo bón và nổi ban.
  • Trên nhóm BN sử dụng pembrolizumab kết hợp với hóa trị liệu : 20% BN nôn, buồn nôn, mệt mỏi, táo bón, nhiễm trùng niêm mạc, viêm dạ dày, tiêu chảy, chán ăn và ho.
  • Liều khuyến cáo sử dụng pembrolizumab cho BN HNSCC là 200mg đường tiêm truyền tĩnh mạch IV trong vòng 30 phút mỗi ba tuần, thời gian sử dụng đến khi bệnh tiến triển, không thể chịu được độc tính hoặc trong vòng 24 tháng với BN không có bệnh tiến triển.

Nguồn: ESMO Link https://www.esmo.org/Oncology-News/FDA-Approves-Pembrolizumab-for-First-line-Treatment-of-HNSCC

Dịch bởi: Nguyễn Uyên – Namud Insider.

 

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *